Chủ Nhật, 6 tháng 1, 2013

Đoàn Chuẩn, Tình Nghệ Sĩ

Monday, 09 September 2002 Trọng Thu 2001 - Đặng Tiến


Nhạc sĩ Đoàn Chuẩn sinh năm 1924 tại Cát Hải, Hải Phòng, trong một gia đình tư sản, chủ hãng nước mắm Vạn Vân lừng danh, đã đi vào tục ngữ:

    Dưa La, cà Láng, nem Báng, tương Bần,
    Nước mắm Vạn Vân, cá rô Đầm Sét.


Ông học tây ban cầm với Nguyễn Thiện Tơ, rồi hạ uy cầm với William Chấn. Tuổi trẻ hào hoa, chỉ thích... xe hơi ! Ông có 6 "ô-tô", trong đó có chiếc Ford Frégatte sang hơn Thủ Hiến. Kháng chiến bùng nổ, gia đình dời về Thanh Hoá, Đoàn Chuẩn gặp Tô Vũ, Tạ Phước, cùng đi hát với Ngọc Bích (xem Diễn Đàn số trước) và sáng tác bài Tình Nghệ Sĩ (1948), Sông Chu (chưa phổ biến). Sau đó, ông theo một đoàn cứu thương, lên Việt Bắc, làm bài Đường về Việt Bắc.

Bỏ kháng chiến về thành khoảng 1950, ông tung ra một loạt ca khúc đã sáng tác từ trước, làm thêm nhiều bài mới, được các đài phát thanh nồng nhiệt phát sóng và nhà Tinh Hoa xuất bản dưới tên: Nhạc Đoàn Chuẩn - Lời Từ Linh. Đến năm 1954, Đoàn Chuẩn chọn ở lại Hà Nội, Từ Linh di cư vào Nam, mất năm 1992. Dù có ký tên chung, Đoàn Chuẩn là tác giả duy nhất cả nhạc và lời: chính ông tuyên bố như vậy mà không ai cải chính; ngay tại miền Nam, cũng không ai hay biết gì về Từ Linh.

Năm 1956, hãng nước mắm Vạn Vân bị tiếp quản và tài sản Đoàn Chuẩn bị tịch thu trong đợt cải tạo công thương nghiệp tư bản, nhưng gia đình còn mua được căn nhà số 9 đường Cao bá Quát, Hà Nội. Thời gian này, ông có làm bài Gửi Người Em Gái đã di cư vào Nam. Ông sống âm thầm, ngưng sáng tác, chỉ dạy nhạc tại nhà, được gọi là Phân bộ 2 của Trường Âm Nhạc Dân Lập. Đầu năm 2000, ông bị tai biến mạch máu não, nhạc sĩ Phạm Duy về nước, ghé đến thăm lúc ông còn hôn mê. Sau đó thì mất tiếng nói, chỉ tỉnh trí để bút đàm cho đến lúc qua đời, 22 giờ, ngày 15.11.2001.

Đoàn Chuẩn sáng tác trong một thời gian ngắn 1948-1956, mà chủ yếu là 3 hay 4 năm chung quanh thời điểm 1950, được 10 bài nổi tiếng, còn 6 bài không phổ biến. Tại Miền Bắc, tác phẩm Đoàn Chuẩn không đựợc hát, vì nội dung ủy mỵ của ca khúc và lý lịch tác giả; khi đất nước thống nhất, sau 1975, nhạc ông vẫn bị cấm hát cho đến khoảng 1990. Tại Miền Nam trước 1975, ca khúc Đoàn Chuẩn được phổ biến sâu rộng với lớp người di cư, vì đáp ứng với hoài niệm của giới văn nghệ sĩ gốc Bắc và nhu cầu của giới trí thức, thanh niên, sinh viên thành phố.

Nhạc Đoàn Chuẩn được xếp vào nhạc tiền chiến một cách võ đoán. Một mặt, chữ "tiền chiến" áp dụng cho văn học nghệ thuật Việt Nam là một lối nói tuỳ tiện; mặt khác bài hát đầu tiên của Đoàn Chuẩn là Tình Nghệ Sĩ làm năm 1948 thì không thể gọi là tiền chiến.

Người viết lịch sử tân nhạc cũng hờ hững với ông; ngoài những thành kiến, họ còn cho rằng những bài thu ca của ông không mang lại gì mới, so với Đặng Thế Phong và Văn Cao; đề tài mùa thu cũng đã muôn đời, từ thơ Đường thơ Tống. Nói vậy thì không lý giải được lòng yêu chuộng của thính giả, và của giới ca nhân, từ Anh Ngọc, Sĩ Phú trước kia, đến ánh Tuyết, Lê Dung gần đây.

So sánh bao giờ cũng giản lược, tôi đành giản lược cho dễ hiểu, trong một bài báo.

Ba bài hát mùa thu của Đặng Thế Phong là tiếng kêu thất thanh của niềm cô đơn tuyệt vọng, không cần hồi âm:

    Nhớ khi chiều sương
    Cùng ai trắc ẩn tấm lòng
    Biết bao buồn thương
    Thuyền mơ buông suôi dòng
    Bến mơ dù thiết tha
    Thuyền ơi ! Đừng chờ mong.
   
(Con thuyền không bến)


    Hồn thu tới nơi đây gieo buồn lây
    Lòng vắng muôn bề không liếp che gió về

    (Giọt Mưa Thu)

Nhạc thu của Văn Cao là tiếng khắc khoải của một nghệ sĩ đi tìm tâm hồn đồng điệu:

    Đêm mùa thu chết
    Nghe mùa thu rớt
    Rơi theo lá vàng
    Em ngồi đan áo
    Lòng buồn vương vấn
    Em thương nhớ chàng

    (Buồn Tàn Thu)

Như vậy, chủ thể phát ngôn và tinh thần phát ngôn đã có phần khác nhau. Phạm Duy thường phát ngôn với tư cách công dân nghệ sĩ, trong một hoàn cảnh lịch sử và xã hội nhất định:

    Chiều biên khu, vào mùa sang thu
    Ai chinh phu nghe mùa thu tới...
    Thu ơi thu, ta vỗ súng ca

    (Thu Chiến Trường) 1946


    Người lạnh lùng nghe mưa thu trên từng ba-lô
    (Đường Về Quê) 1947


Đoàn Chuẩn có tiếng nói khác: Ông phát ngôn trên tư cách nghệ sĩ, đưa tác phẩm nghệ thuật đến một quần chúng nghệ thuật, trên những tiêu chuẩn thẩm mỹ. Ca khúc đầu tiên, bài Tình Nghệ Sĩ làm giữa những ngày kháng chiến - hay tản cư - gian nan, nói lên điều đó, làm một thứ chìa khoá đi vào thế giới Đoàn Chuẩn.

    Tung phấn hương yêu qua bao lời hát
    Bay tới bên em, tới em thầm nhắc
    Đây ý tơ xưa đâu duyên tình cũ
    Bóng anh phai dần ái ân tàn theo
    Mối tình nghệ sĩ như giấc mơ
    Chóng tàn vì vương vấn muôn ý thơ...


Ý này còn rõ hơn nữa trong bài Chuyển Bến:

    Thuyền cắm tay sào từ cuối thu
    Ngoài kia sông nước như đón chờ
    Còn đêm nay nữa, ta ngồi với nhau
    Ngày mai anh đã xa rồi...


Hình ảnh chìa khóa trong ca khúc Đoàn Chuẩn không phải là những "Lá Thư", "Tà Áo Xanh", "Lá Đổ Muôn Chiều" như người ta thường nói, mà là con thuyền: Thuyền rời xa bến vắng người ơi. Con thuyền muôn đời, của ca dao, của Đường Thi, từ bến Tần Hoài của Đỗ Mục, đến bến Phong Kiều của Trương Kế - hay gần hơn - trong Xuân Diệu: Tình du khách thuyền qua không buộc chặt...

Ca khúc Đoàn Chuẩn là thế giới quy ước. Người phụ nữ tô quầng mắt, ngập ngừng trong chiếc áo nhung..., đôi mắt như hồ thu..., bên cầu ngồi xõa tóc thề... là người đẹp trong tranh Tố Nữ, tranh lụa, hay sơn dầu của Tô Ngọc Vân, Lương Xuân Nhị.

Trong thế giới quy ước và hư ảo đó, Đoàn Chuẩn đã vẽ vời nên vẻ đẹp của Trần Gian qua những mùa Thu Quyến Rũ:

    Anh mong chờ mùa thu
    Trời đất kia ngả màu xanh lơ
    Đàn bướm kia đùa vui trên muôn hoa
    Bên những bông hồng đẹp xinh
    Anh mong chờ mùa thu
    Dìu thế nhân dần vào chốn Thiên Thai
    Vài cánh chim ngập ngừng không muốn bay
    Mùa thu quyến rũ anh rồi...


Cái sắc mạnh huy hoàng của Đoàn Chuẩn là ở chỗ đó. Ông đã đưa Thiên Thai về đây với thu trần gian, trong khi Văn Cao phải lên tận cõi Đào Nguyên. Trong tình khúc Đoàn Chuẩn, Hoa xuân (đã) gặp bướm trần gian, ánh trăng xanh (đã) tan thành suối trần gian...

Mùa thu ở nông thôn Việt Nam từ ngàn năm nay vẫn vậy, nhưng phải đợi đến Nguyễn Khuyến chúng ta mới có những bức tranh thu tuyệt sắc. Và phải đợi đến Đoàn Chuẩn chúng ta mới được chơi vơi cùng từng mây lơ lửng trời xanh ngắt, trên âm giai dìu dặt của tân nhạc. Rồi thương cho những:


    Lá vàng từng cánh rơi từng cánh
    Rơi xuống âm thầm trên đất xưa

    (Gửi Gió cho Mây Ngày Bay)

Trong thâm tâm, có người xa cách với Đoàn Chuẩn vì một lý do: Ông là con nhà giàu, làm nhạc để mà chơi. Nhưng đây chính là tự do của con người, của kẻ làm nhạc, kẻ hát và người nghe hát. Cuộc chơi, chính là tự do trong sáng tạo nghệ thuật.

Biết đâu, cuộc đời cũng chẳng là một cuộc chơi, mà cuối cùng, khi nhận ra, con người thường thấy mình thua lỗ.

Tình trần ôi mong manh...
Nguồn sưu tầm by Ngoan Trương Công

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét