Nghe nhạc nhiều nhưng mấy ai biết đến hoàn cảnh xuất xứ những nhạc phẩm vốn chất chứa bao tâm sự trùng trùng của người nhạc sĩ. Xin gởi đến các bạn những tâm sự này (sưu tầm khắp nơi) do chính người nhạc sĩ thổ lộ về các nhạc phẩm vang bóng một thời của họ....
GIỌT MƯA THU.....
Từ ô cửa nhỏ, mưa ngâu chảy ra tới sông dài, bể rộng, bây giờ nhạc sĩ của mưa mùa thu đã đi và đi xa muôn thuở trong lòng người yêu nhạc bởi duy nhất ba bài hát bất hủ. Ba giọt nước ấy đã góp cho ly nước của nền âm nhạc Việt Nam thêm sóng sánh, quánh vàng.
Sinh ra trong một gia đình nghèo tại Nam Định, cha mất sớm, gia cảnh túng thiếu, lại có tới sáu người con. Chú bé Phong đã phải sớm bỏ học, rời quê lên Hà Nội kiếm sống. Nhờ vào năng khiếu vẽ tranh mà Phong đã có việc cho một số tờ báo như vẽ truyện tranh, hình minh họa… và được vào học dự thính tại trường cao Đẳng Mỹ thuật Đông Dương.
Trong một kì thi, thầy giáo cho các học viên tự sáng tác. Đến lượt chấm tác phẩm của Phong, thầy giáo người Pháp TARDIEU đã rất tâm đắc, khen ngợi nhưng lại phán một câu “E rằng con sẽ không sống được lâu bởi hình là vận mệnh người” do trong đó Phong vẽ nhưng thân cây khô của mùa thu, khẳng khiu và đặc biệt tất cả đều cụt ngọn
Quả đúng như thế, cuộc sống của Phong rất long đong, khốn khổ. Anh không chỉ sống ở Hà Nội mà còn lang bạt qua Campuchia, dạt về Hà Nội với đủ nghề nhưng vẫn không thể sống nổi. Từ vẽ tranh, dạy vẽ, mở lớp dạy nhạc, sáng tác và cả nghề hát nhạc hội…
Cám cảnh với oan nghiệt cuộc đời như một định mệnh vương vào tuổi đời. Phong đã viết những bài hát não nề diễn tả tâm trạng của mình, đặc biệt cả ba bài nổi tiếng nhất đều được viết trong mùa thu vàng vọt, mưa não nề. Bởi thu chỉ đẹp và lãng mạn cho người đang mặn nồng, say đắm. Mùa thu sẽ là nỗi đớn đau của người bệnh tật từ thể xác, tâm hồn cho đến nghèo túng.
Thu 1942, Phong bệnh nặng. Một hôm mưa tầm tã, rơi lộp bộp trên mái lá, không thể ngủ, cũng chẳng thể nằm vì nước lạnh thấm ướt căn nhà nhỏ sơ sài. Phong ngồi ôm gối nhìn qua cửa sổ đếm từng giọt rơi xuống, vỡ bóng hòa vào dòng nước lênh láng, trôi tuột và nghĩ rằng có lẽ cuộc đời của mình cũng như thế. Nỗi buồn đã buông chụp xuống ngay từ khi mới chào đời. Hàng ngàn nỗi khổ đã bủa vây và chưa có ngày nhìn thấy hào quang. Đau quá, con tim như thắt lại, máu trào lên để Phong gắng gượng lết tới bàn tuôn trào những cảm xúc lai láng trong một giai điệu hết sức da diết, não nề và tuyệt vọng.
“…Hồn thu tới nơi đây gieo buồn lây
Lòng vắng muôn bề không liếp che, gió về
Ai nức nở thương đời châu buông mau
Dương thế bao là sầu…”
Vừa viết, Phong vừa ôm ngực ho lên từng hồi dài. Bài hát được đặt tên “Vạn cổ sầu” có nghĩa là những nỗi buồn không thể giải thoát.
Ngay sau đó những người bạn vì lo lắng cho sức khỏe của Phong đã đội mưa tới thăm. Ôm đàn, vuốt ngực, đè nén cảm xúc, chàng trai trẻ đã hát cho mọi người cùng nghe thay cho tâm sự không thể tỏa bày. Cung điệu trầm lắng, rời rã, ngưng đọng, nức nở của một con người chẳng còn định hướng tựa con thuyền nhỏ trên sông vạm vỡ mờ bóng đêm. Phong đã trải lòng theo từng lời ca ngọt ngào, không ủy mị, rên rỉ làm mọi người nín lặng và cùng buồn chỉ muốn khóc.
“Bài hát hay lắm Phong ơi, như xoáy vào tim, vào óc của người cùng tâm trạng, nhưng bi thảm quá. Đặc biệt tựa đề “Vạn cổ sầu” nghe tang thương lắm, nên sửa lại đi” – bạn bè góp ý như thế với Phong sau khi cùng lén lau những giọt nước mắt. Phong nghĩ, cũng đúng, bởi đâu phải mình khóc trong lòng, mà sau này người khác hát cũng sẽ phải đồng tâm trạng. Chẳng lẽ các ca sĩ yêu bài này cũng phải chịu vận mệnh như mình sao?
Nhìn những giọt mưa ngâu của Ngưu Lang – Chức Nữ vẫn tuôn trào chưa ngơi nghỉ dội xuống qua ô cửa, Phong thấy sao phũ phàng tựa đời mình quá. Thôi thì sửa tựa cho nhẹ nhàng hơn và “Vạn cổ sầu” được đổi thành “Giọt mưa thu”.
Có lẽ bài hát như một lời tạ từ, điềm báo trước và cũng là di chúc cuối cùng nên chẳng bao lâu sau chàng nhạc sĩ tài hoa, bạc mệnh, yểu đời: Đặng Thế Phong đã mang theo “Vạn cổ sầu” mãi đi vào màn đêm nhạt nhòa khi mới 24 tuổi tại quê hương Nam Định của mình vì căn bệnh của những người nghèo: bệnh Lao.
ÁO LỤA HÀ ĐÔNG.....
Ai trong chúng ta cũng đã từng hát một lần bài " ÁO LỤA HÀ ĐÔNG" của nhạc sĩ NGÔ THỤY MIÊN, nhưng mấy ai biết rằng bài hát này lại có xuất xứ từ một cuộc thi hoa hậu đầu tiên của Việt Nam.
Năm 1930, xứ Bắc Kỳ đã tổ chức cuộc thi người đẹp (giống như thi Hoa hậu bây giờ) với những ấn tượng lạ: không phải ở Hà Nội mà ngay tại tỉnh Hà Đông; các cô gái bất cứ lứa tuổi, kể cả đã có chồng, ngành nghề gì cũng đều được tham gia; phải mặc áo lụa của xứ Hà Đông.
Người đăng quang trong cuộc thi là người đẹp LÝ LỆ HẰNG, xuất thân từ một nông dân nghèo tỉnh Thái Bình. Do cuộc sống mưu sinh, cô phải lên Hà nội làm nghề hát cô đầu cho các quán rượu.
Sau khi thay đổi cuộc đời, cô trở nên nổi tiếng và là niềm ước mơ của bao công tử nhà giàu trong cả nước. Tuy nhiên chẳng ai có thể với tới được móng chân của người đẹp "chân lấm, tay bùn" bởi chỉ một thời gian sau Quốc Vương Bảo Đại đã chọn LÝ LỆ HẰNG làm người tình.
Có lẽ cũng như bao chàng trai si mê sắc đẹp khác, dù đã trải qua hơn 20 năm sau, nhà thơ NGUYÊN SA vẫn mơ tưởng đến nụ cười, ánh mắt khuynh đảo của hoa hậu đầu tiên và buộc ông phải viết bài thơ ca ngợi người đẹp mặc áo lụa ấy.
Mãi đến năm 1969, khi nghe câu chuyện về hoa hậu "thuần nông" phút chốc trở thành người yêu của ông vua cuối cùng Việt Nam, chàng trai 21 tuổi NGÔ THỤY MIÊN đã viết nên ca khúc nổi tiếng "ÁO LỤA HÀ ĐÔNG" được phổ lời từ bài thơ của NGUYÊN SA như để ngưỡng mộ những cô gái tựa như đóa sen vươn lên từ đầm lầy.
GỞI GIÓ CHO MÂY NGÀN BAY....
Vào đầu thập niên 50, một nhà tỷ phú trẻ từ Hải Phòng lên tận nhà hát Lớn Hà nội để xem đoàn hát Sài Gòn ra diễn. Sau đêm đầu, chàng đã ở lại và xem tiếp những đêm sau chỉ vì đem lòng hâm mộ cô ca sĩ chính của đoàn: ca sĩ MỘC LAN.
Khi đó ca sĩ MỘC LAN đang là một ngôi sao lớn của cả nước, không chỉ đẹp, đoan trang, hiền lành mà cô còn nổi tiếng bởi đang sống rất hạnh phúc bên chồng cũng là một ca sĩ hàng đầu: ca sĩ CHÂU KÌ. Hai người từng được mệnh danh là cặp tài tử giai nhân, trai tài gái sắc.
Trở lại câu chuyện Công tử đất Cảng Hải phòng, khi cô ca sĩ về Sài Gòn, vì tương tư, anh cũng liền mua vé bay vào tìm cách gặp gỡ. Nhưng vì biết họ đang yên bề gia thất, hạnh phúc bên nhau nên chàng dùng kế “mưa dầm thấm lâu”. Nhà tỷ phú đã đặt khoản tiền rất lớn cho một tiệm hoa trên đường Nguyễn Huệ với điều kiện nơi đây phải làm theo lời đề nghị bí mật của anh Từ ngày ấy, mỗi sáng khi mở cửa nhà, cô ca sĩ đều nhận được một bó hoa hồng tươi thắm (trị giá món quà lãng mạn đó bằng 3 bữa ăn cho một gia đình trung lưu thuở ấy). Đều đặn như thế mà ca sĩ Mộc Lan vẫn không hề biết tên người hâm mộ mình, cũng như mục đích của người tặng. Tuy nhiên, với tâm hồn nhạy cảm của người nghệ sĩ, cô dần quyến luyến với người vô hình và trở nên nôn nóng chờ đợi đêm qua thật nhanh để sáng sớm được ôm bó hoa thơm ngây ngất.
Suốt 3 tháng trời, không thể chờ đợi được nữa, cô liền ra tiệm hoa Nguyễn Huệ và nhờ chuyển một bức thư cho người “vô danh, ẩn tích” với những lời cám ơn chân thành và một chút ẩn ý ngọt ngào. Như mưa gặp bão, khi nhận được những lời nói mà chàng hằng mong đợi, ngay trong đêm đó chàng công tử đã thức suốt để mơ mộng, thả hồn theo gió vào Nam, ngất ngây với tâm hồn kẻ đa tình và sáng sớm ra Bưu điện để gởi nhanh cho nàng một lá thư. Trước khi dán phong thư, chàng còn không quên xịt ít nước hoa vào và hôn nhẹ lên tờ giấy poluya màu xanh (loại giấy mỏng, dùng viết thư tình, chỉ đến khi thời đại computer ra đời người ta mới quên dùng giấy này để viết thư) Nhận thư, ca sĩ MỘC LAN vô cùng bàng hoàng sững sờ, bởi trong đó không phải là những lời nói tỏ tình, yêu đương mà chỉ có một bài hát. Các khuông nhạc được kẻ bằng tay cẩn thận, lời hát được viết nắn nót trên nền tờ giấy mỏng tanh tình tứ “gửi bướm muôn màu tìm hoa, gửi thêm ánh trăng, màu xanh lá thư, về đây với thu trần gian…” chứng tỏ người theo đuổi nàng bấy lâu rất thật tình và gửi gắm hết tâm huyết thương mến.
Nàng còn ngạc nhiên hơn khi biết bài hát được sáng tác chỉ trong một đêm và viết dành riêng tặng cho nàng. Điều đặc biệt, tác giả tình khúc ấy là người không chỉ nổi tiếng giàu có nhất ở đất Cảng, khắp Bắc Kỳ, mà khi đó ông cũng đang là một nhạc sĩ lừng danh với tên gọi “ông Vua Slow – ĐOÀN CHUẨN” không ai không biết tên tuổi. Ngay hôm sau, trên sân khấu Sài Gòn, ca sĩ MỘC LAN đã hát vang “ GỬI GIÓ CHO MÂY NGÀN BAY ” của nhạc sĩ ĐOÀN CHUẨN (1924 – 2001). Chỉ trong một thời gian ngắn bài hát trở nên nổi tiếng với những giai điệu du dương, lời hát êm ái, sâu sắc và lãng mạn. Nhưng cũng từ khi câu chuyện tình nghệ sĩ này “thanh thiên, bạch nhật” thì mái ấm hạnh phúc của gia đình trai tài, gái sắc MỘC LAN – CHÂU KỲ cũng “gửi gió cho mây ngàn bay”. Bởi ít lâu sau nàng đã ngã vào vòng tay của chàng công tử đa tình đất Cảng.
NỖI LÒNG
Phố Khâm Thiên những năm 30 là nơi phức tạp nhất của đất Hà Thành, ở đây tập trung những quán cô đầu, lầu xanh, nhà chứa, thuốc phiện, sòng bài, khu nhà ổ chuột … , tất tần tật các tệ nạn xã hội. Thế nhưng giữa vũng bùn như thế lại mọc lên một đóa sen tinh khiết - Một câu chuyện tình trinh son.
Còn đang học đệ thất (lớp 7 ngày nay), nhưng cậu bé Khánh đã để ý cô bé cạnh nhà. Vì còn quá nhỏ, ngây thơ, nên cả hai chẳng dám cho ai biết họ đang có tình ý. Để gặp nhau nói mấy câu bóng gió, thường thì cô cậu giả vờ vô tình cùng làm những chuyện gì đó ngay bên hàng rào, như phơi quần áo, xách nước giếng, quét sân, rửa bát… đây cũng là dịp hiếm hoi sau giờ học hoặc khi người lớn đi vắng.
Tình yêu non nớt, vụng dại vẫn kéo dài cho tới năm chàng Khánh học đến lớp đệ nhất. Đến kì thi Thành chung (tốt nghiệp phổ thông hiện nay) thì Khánh bị rớt. Biết vì phân tâm do yêu, không lo học, cô bé hàng xóm tránh mặt, không gặp nữa dù hai nhà chỉ cách nhau một hàng rào. Nàng gửi lời nhắn tới Khánh: khi nào thi đậu Thành Chung thì mới thấy nhau. Trong thời gian chàng lo dùi mài kinh sử để thi lại, đột ngột, chỉ trong một đêm gia đình cô gái chuyển gấp lên Thái Nguyên, nơi người cha sẽ tới làm việc. Không được gặp người yêu, Khánh chỉ kịp chuyển tới nàng một chiếc khăn tay. Kì thi ấy Khánh có bằng Thành Chung. Có kết quả, Khánh tức tốc đón xe lên Thái Nguyên. Sau bao tháng chưa nhìn thấy người yêu, sau bao thời gian xa cách, dồn nén nhớ thương, tình yêu của họ giờ mới có dịp nảy nở. Tựa như hạt mầm dưới lớp đất phủ, chỉ chờ đêm mưa đã vội vã vươn lên thành lá non. Chàng dám công khai chuyện tình cảm với gia đình nàng sau khi có việc làm trong ngành điện của thành phố.
Cũng cần nói thêm, thuở ấy, đường từ Hà Nội lên Thái Nguyên không thuận tiện như ngày nay. Xa hơn cả trăm hai chục cây số và phải đi bằng nhiều phương tiện khác nhau: tàu hỏa, ô tô, phà và cả băng rừng, chưa kể những nguy hiểm của cuộc chiến, thú dữ. Gần như mất cả ngày mới tới nơi. Vậy mà mỗi chiều thứ bảy Khánh lại bỏ Khâm Thiên sau lưng, lặn lội suốt đêm, sáng lên gặp nàng và trưa Chủ nhật vượt quãng đường xa về lại Hà Nội. Đều đặn từng tuần như thế. Mỗi lần gặp nhau họ lại xách đàn lên một ngọn đồi trước nhà nàng để hòa nhịp cùng gió trời thổi sáo vi vu trên những ngọn thông. Một lần, do bận công việc nên hai tuần liền chàng không thể đi như đã hẹn. Cuối tuần thứ ba chàng mới khăn gói lên thăm. Tới nhà, một không khí ảm đạm, buồn bã bao phủ. Cha nàng lặng lẽ đưa chàng một chiếc hộp gỗ. Đây là chiếc hộp từng đặt chiếc khăn tay và chàng trao tặng đêm gia đình nàng rời khỏi Hà Nội ngày xưa . Bên trong vẫn còn nguyên chiếc khăn trắng có thêu hình đôi chim bồ câu và một xấp thư mà chàng đã từng gửi trong những ngày không gặp. “Gió Thái Nguyên rét về Yên Thế Đất Thái Nguyên nước độc, rừng thiêng” Sau vài ngày bạo bệnh, nàng đột ngột ra đi. Ôm đàn lên ngọn đồi thông, chàng vật mình vào ngôi mộ người yêu còn thơm mùi đất, chưa kịp mọc cỏ non. Những giây phút lãng mạn hạnh phúc tuột vụt vào quá khứ. Chẳng còn tiếng gió vi vu thổi sáo trên lá, chẳng còn người yêu nghiêng tai nghe đàn. Thay vào đó là ngọn gió đông ào ạt như quất rát xuyên qua lồng ngực đớn đau, chĩa thẳng vào tim. Nước mắt chưa kịp rơi đã bay ngược hư vô. Kỉ niệm cùng nàng tuôn trào theo từng tiếng đàn rời rã “ yêu ai, yêu cả một đời, tình quá khắt khe khiến cho đời ta, đau tủi cả lòng, vì yêu ai mà lòng hằng nhớ …”. Bài hát “Nỗi lòng” đã nghiệt ngã ra đời bên một ngôi mộ mới, trên một đồi thông chất chứa như tiếng khóc ai oán của một cuộc tình chưa chạm tay tới hạnh phúc. “…Lòng vẫn biết nếu yêu rồi một ngày Là đến với đớn đau Nhưng sao trong ta vẫn yêu vẫn nhớ Dù sao, dù sao nếu có một ngày Một ngày gieo trong tim ta Là tình yêu kia ly tan Mà lòng vẫn thương vẫn nhớ…”
Về lại Hà Nội, về lại ngõ nhỏ trong phố Khâm Thiên. Cùng với tác phẩm đầu tay “NỖI LÒNG”, chàng trai trẻ chỉ kịp giãi bày nỗi đớn đau tột cùng của mình trong một tuyệt tình ca nữa “CHIỀU VÀNG”, sau đó ông mãi về cõi xa cùng người yêu ngay tại ngôi nhà nhỏ có hàng rào xưa đầy kỉ niệm. Dẫu là một người viết nhạc không chuyên, chỉ với 2 bài duy nhất trong cuộc đời, nhưng NGUYỄN VĂN KHÁNH vẫn được đặt vào hàng ngũ những nhạc sĩ tài danh của dòng nhạc Tiền chiến.
DIỄM XƯA...
Sơn bắt đầu câu chuyện. Hai chị em đều đẹp và quí phái. Tôi theo cô Diễm. Mối tình học trò, có lẽ đơn phương, kéo dài từ khi tôi còn ở Huế cho đến lúc vào Sài Gòn trọ học. Cha mẹ Diễm khó và không thích tôi. Nhưng tôi vẫn cứ đeo đuổi hình bóng của Diễm, bởi Diễm cũng chưa có biểu hiện nào xa lánh tôi và cũng không có lời lẽ cự tuyệt. Năm đó tôi thi trượt Bac II. Diễm đậu và vào Sài Gòn để vào đại học Văn Khoa. Còn tôi thì về lại Huế, bỏ ngang việc học vì gia đình đang lâm cảnh sa sút. Phần buồn, phần tự ái, tôi không còn tìm cách liên lạc với Diễm nữa. Có lẽ vì vậy mà Diễm cũng lơ luôn.
Diễm đâu biết rằng trong thời gian này tôi đau khổ nhất. Tôi đã cố nén mọi khổ đau trong im lặng. Sự khổ đau và nhớ nhung dày vò tôi từng đêm, tôi đã phải viết nên bài "Diễm Xưa" để trút bớt nỗi khổ đau trong lòng. Nhưng có điều lạ là khi tôi viết xong bản nhạc này, tôi lại thấy lòng mình thanh thản, nhẹ nhàng. Tôi cảm thấy vơi đi rất nhiều nỗi nhớ và tình yêu. Trong lòng tôi bấy giờ chỉ còn một chút tình mong manh như sương, như khói. Nó không còn nồng nàn, mãnh liệt như trước kia. Một dịp tôi vào Sài Gòn, tìm đến cư xá nơi Diễm đang nội trú với ý định tặng nàng bản nhạc để làm kỷ niệm một thời tuổi trẻ, rồi thôi. Nhưng không gặp được Diễm. Tôi nhờ mấy cô bạn gái đang đứng ngoài cổng trao lại dùm. Khi tôi quay lưng đi được một quãng thì nghe tiếng Diễm từ trên "ban công" gọi theo:
- Anh Sơn! Anh Sơn! Anh Sơn ơi!
Nhưng tôi không ngoái lại. Tôi cắm đầu đi thẳng. Tiếng gọi tên tôi vẫn còn văng vẳng sau lưng. Từ ấy đến nay, tôi tự nhủ lòng, sẽ không bao giờ tìm gặp lại Diễm nữa.
GỢI GIẤC MƠ XƯA...
Năm 1954, ông quen cô gái có cái tên khá dễ thương: Lê Thu Hiền. Gia đình cô gái này vốn là người Bắc định cư tại Sài Gòn. Tình cảm hai người ngày càng đằm thắm, và ông luôn tin rằng cuộc tình ấy sẽ mang đến những điều như ông hằng mong ước. Bỗng một ngày, cô nói với ông rằng có người đang hỏi cưới cô. Ông liền liều đến nhà cô để gặp người bố và thưa chuyện hai đứa, nào ngờ chẳng ngăn được số phận, thời gian sau cô thật sự đi lấy chồng, lấy anh giám đốc trường dạy lái xe Auto Ecole Mayer.
Đó là thời điểm giáp tết Ất Mùi (1955), ngày cô lên xe hoa, ông ngồi ở quán cà phê cạnh nhà cô, nhìn thấy cô mặc lễ phục cô dâu, ôm bó hoa trắng. Đám cưới ấy to lắm, đoàn rước dâu đi một vòng rồi mới về nhà chú rể. Mỗi vòng bánh xe quay là mỗi lần nghiền nát tim ông. Nỗi buồn, sự đau đớn dâng ngập trong lòng ông. Đoàn xe cưới qua đi, ông bần thần trở về căn gác trên đường Lý Thái Tổ, vùi mình trầm tư và lúc ấy dường như bao nhiêu nỗi đau lại tuôn ra. Bài Gợi giấc mơ xưa được ra đời trong trạng thái đó. Thương em thì thương rất nhiều mà duyên kiếp lỡ làng rồi... Cả phần nhạc lẫn phần lời chỉ hoàn thành trong vòng khoảng 10 phút!
Ông đưa bài hát này cho ca sĩ Mạnh Pháp, và được phát đầu tiên trên đài phát thanh Pháp Á. Bài hát trở nên nổi tiếng, và câu chuyện tình trong bài hát được nhiều người quan tâm. Vì sao ông đang ở Sài Gòn mà bài hát được bắt đầu bằng Ngày mai lênh đênh trên sông Hương? Vì ngay từ cái lúc nhìn người yêu đi lấy chồng, ông đã quyết tâm từ bỏ Sài Gòn để chạy trốn nỗi đau. Ông ra Huế, dù bao nhiêu người ngăn cản. Trong khoảng thời gian này, ông lao vào nhiều mối tình để tìm quên. Ca sĩ có, diễn viên cũng có. Hầu hết đều cảm mến ông từ bài hát Gợi giấc mơ xưa. Nhưng 2 năm sống ở Huế ông đau xót nhận ra một điều rằng, ông chẳng thể nào quên mà ngược lại, càng nhớ nhung nhiều hơn. Mối tình ấy trong ông quá sâu đậm, mỗi con đường, mỗi âm thanh đều gợi cho ông nhớ về ngày xưa Ngày mai lênh đênh trên sông Hương, Theo gió mơ hồ hồn về đâu? Sóng sầu dâng theo bao năm tháng, ngóng về đường lối cũ tìm em! Thương em thì thương rất nhiều mà duyên kiếp lỡ làng rồi Xa em ! lòng anh muốn nói bao lời gió buông lả lơi. Hình bóng đã quá xa mờ dần theo thời gian. Kiếp sau xin chắp lời thề cùng sống bước lang thang. Em ơi ! tình duyên lỡ làng rồi còn đâu nữa mà chờ, Anh đi lòng vương vấn lời thề nhớ kiếp sau chờ nhau. Tha hương lòng thương nhớ ngày nào cùng tắm nắng vườn đào. Gió xuân sang anh buồn vì vắng bóng người yêu. Rồi mai khi anh xa kinh đô. Em khóc cho tàn một mùa thơ. Nhớ người em nương theo cơn gió. Ru hồn về dĩ vãng mộng mơ. Thương anh thì thương rất nhiều mà ván đã đóng thuyền rồi. Đa đoan trời xanh cắt cánh lìa cành khiến chim lìa đôi Chiều xuống mưa gió tiêu điều reo trên dòng Hương. Tháng năm chưa xóa niềm sầu vì đứt khúc tơ vương. Anh ơi, đời đã lỡ hẹn thề thì đâu có ngày về. Xa anh đời em tắt nụ cười héo hắt đôi làn môi. Đêm đêm đèn le lói một mình ngồi ôm giấc mộng tình. Kiếp sau đôi tim hòa chào đón ánh bình minh.
LỜI BUỒN THÁNH...
Từ ngày Nguyễn Văn Ba chết, chúng tôi buồn vì thiếu vắng một người bạn, nên không còn hứng thú trong những buổi lang thang nữa.
Những ngày bó gối nằm nhà, Sơn thường ngồi tư lự trước bàn viết duy nhất dành cho cả hai soạn bài, nhìn đăm đắm ra con đường đất đỏ. Mùa này bông lau nở trắng khắp nơi. Lau trắng dọc theo con đường dốc chạy dài từ trong buôn ra tới quốc lộ, băng ngang trước nhà chúng tôi. Buổi chiều, gió nồm thổi nhẹ từng cơn, lướt qua rừng lau, xô chúng ngã nghiêng xuống, rồi chúng bật dậy, tạo thành những âm thanh xào xạc nhè nhẹ, đều đều, buồn buồn. Chiều xuống dần. Những vạt nắng cuối cùng chiếu xiên trên những ngọn bông lau, lấp lánh sáng ngời. Gió lắng dần. Không gian trở nên im ắng, tĩnh mịch. Chợt tiếng kèn đồng xa xa vẳng lại, lúc nghe, lúc mất. Thật hắt hiu buồn. Đó là lúc cô nữ sinh hàng xóm, cô Ngà, đúng giờ đi lễ chiều. Chuông nhà thờ đang vang vang, dồn dập từng hồi, thúc dục con chiên đến giáo đường.
Thật đúng như tên đặt, da cô trắng ngà. Người mãnh mai với mái tóc thề chấm ngang vai, với khuôn mặt phảng phất nhiều nét như Đức mẹ Maria. Rất dịu dàng trong dáng đi. Mỗi buổi chiều cô đi lễ, đều đi ngang nhà chúng tôi. Hai tay ấp quyển Thánh Kinh trước ngực, đầu hơi cuối xuống, lặng lẽ, khoan thai bước. Đã bao lâu rồi? Cái hình ảnh rất đẹp ấy, cái màu áo dài trắng nổi bật trên nền đất đỏ, thấp thoáng ẩn hiện trong đám lau trắng, đã đi ngang nhà chúng tôi bao nhiêu chiều rồi mà chúng tôi không hề hay biết. Thật uổng phí! Chẳng là, cứ ba giờ chiều, chúng tôi đã túc trực quanh mấy cái bàn bi da để dành chỗ rồi chơi cho đến khi tắt điện mới mò về, thì làm sao có thì giờ để biết bên hàng xóm có người đẹp. Cái tên Ngà, mãi về sau, theo dõi, lắng nghe mấy đứa em cô gọi, mới biết.
Với tâm hồn nhạy cảm của người nghệ sĩ, Sơn đã thành công khi đưa tất cả những âm thanh mơ hồ của ngàn lau, của tiếng kèn đồng, tiếng chuông nhà thờ cùng dáng yểu điệu của cô Ngà, hòa nhập với gió chiều nhè nhẹ, để cấu thành chất liệu tuyệt vời tạo nên nhạc phẩm Lời Buồn Thánh.
GÁI XUÂN...
Mỗi dịp Tết đến, những giai điệu quen thuộc của bài hát Gái Xuân lại vang lên: "Em như cô gái hãy còn xuận Trong trắng thân chưa lấm bụi trần..."
"Xuân Quý Tỵ (1953), tôi đang học lớp điện tử trong khuôn viên trường Petrus Ký. Lúc ấy tôi 21 tuổi sống xa gia đình, không bạn bè giữa Sài Gòn phồn hoa, đô hội. Buồn, chỉ biết lục sách báo ra đọc. Tình cờ mớ sách gối đầu giường có tập thơ Mây Tần của Nguyễn Bính. Tôi đọc thấy bài Gái Xuân, một bài thơ ngắn (chỉ hai khổ thơ) nhưng lại có hấp lực dẫn dắt tâm trí tôi quay về với cố hương ở Thường Tín (Hà Đông). Hà Đông là quê lụa nên câu Gái Xuân giũ lụa trên sông Vân như đưa tôi về trong hoài niệm...Rồi những câu "Lòng Xuân lơ đãng, ý xuân nồng. Cô gái xuân mơ chuyện vợ chồng. Đôi tám xuân đi trên mái tóc. Đêm xuân cô ngủ có buồn khổng. Tài tính nét thơ Nguyễn Bính diễn tả tâm trạng cô gái mới lớn. Tôi cũng là thằng trai 21 tuổi. Thấm nhau lắm anh ạ. Tôi đọc bài thơ dăm lần là đã ngấm, cầm bút giấy viết luôn một mạch". PV hỏi: Với cây đàn guitar? Ông lắc đầu và nói: Ồ không, giấy bút và solfe' cho đến lúc bản nhạc hoàn tất, sau đó mới dùng guitar để thẩm âm lại.
Cho đến bây giờ tôi cũng tự thấy mình là kẻ ngoại đạo trong lĩnh vực sáng tác và ca nhạc, nhưng tôi vẫn còn đó một niềm đam mê số là năm 1950 tôi theo gia đình vào Sài Gòn, một lần ghé vô tiệm nhạc trên đường Catinat tôi mua được cuốn Lárt de Composition Musicale. Cuốn sách đã cho tôi những căn bản về sáng tác. Tôi viết Gái Xuân trong giai đoạn này. Viết, nhưng bài thơ quá ngắn, tôi mạn phép tác giả (đến nay tôi vẫn chưa từng gặp Nguyễn Bính lần nào), thêm vô hai câu của tôi: "Xuân đi, xuân đến hãy còn xuận Cô gái trông Xuân biết bao lần" để đủ độ dài thích hợp. Viết xong, cũng không nghĩ bài hát sẽ được phổ biến." Nhạc sĩ Từ Vũ kể tiếp: Dạo đó, tôi quen với ca sĩ Linh Sơn bèn nhờ cô ấy hát nhưng do cô ấy quá bận rộn, chúng tôi không có dịp trao đổi nên ngày ra mắt Gái Xuân, thú thật tôi vẫn chưa ưng ý lắm. Sau đó, tình cờ tôi gặp nữ ca sĩ Tâm Vấn ở Đài phát thanh Sài Gòn, Tâm Vấn trách: Sao anh không tặng tôi bài hát của ạnh Tôi đã chép tặng Tâm Vấn trên một tờ giấy. Sau đó tôi phải theo bố ra Phan Thiết nên cũng chẳng biết Tâm Vấn "xử lý" như thế nào với bài hát của tôi, chỉ thấy bạn bè viết thư ra cho biết Tâm Vấn hát bài Gái Xuân rất hay và hát thường xuyên ở đài phát thạnh Ở Phan Thiết, trong một đêm lang thang ngoài phố, tình cờ tôi nghe Đài Phát thanh Huế phát bài hát này qua tiếng hát của cô Diệu Hượng Tôi không biết Diệu Hương là ai nhưng tiếng hát ấy đã làm tôi đứng tựa cột đèn, ngây ngất, đến bây giờ cảm giác ấy vẫn còn.
ƯỚT MI...Thuở còn trọ học ở Sài Gòn, năm đó tôi mười bảy tuổi -Sơn kể- đêm nào tôi cũng lò dò đến phòng trà ca nhạc để nghe Thanh Thúy hát. Dần dần hình bóng Thanh Thúy đã ăn sâu vào trong tôi lúc nào không biết. Nói yêu Thanh Thúy thì cũng chưa hẳn. Vì tôi nhỏ tuổi hơn, lại nhiều mặc cảm nghèo và vô danh. Trong khi đó Thanh Thúy là một ca sĩ đang lên, kẻ đón người đưa tấp nập. Biết vậy, nhưng tôi không thể không đêm nào thiếu hình ảnh và tiếng hát của nàng. Có đêm tôi chỉ đủ tiền để mua một ly nước chanh. Đêm đêm tôi thao thức với những khát khao, mơ ước là phải làm một cái gì đó để tỏ cho Thanh Thúy biết là tôi đang rất ngưỡng mộ nàng. Cái khát vọng đó đã giúp tôi viết nên bản nhạc "Ướt Mi" đầu tiên trong đời.
Khi hoàn thành, tôi nắn nót chép lại thật kỹ càng và luôn mang theo bên mình chờ có dịp tặng nàng. Với sự nhút nhát của tuổi trẻ, tôi không dám đưa tặng ngay mà phải chờ khá lâu mới có cơ hội. Một hôm tôi đánh bạo, tìm một chỗ sát bục sân khấu, dự định khi nàng vừa dứt tiếng hát là tôi sẽ đứng lên đưa luôn. Đã mấy lần định làm vẫn không kịp. Nàng vừa cúi đầu chào khán thính giả là đã có người chực sẵn rước đi ngay. Cái đêm định mệnh mà tôi quyết tâm an bài đã thành công. Khi cầm bản nhạc trong tay, nghe mấy lời lí nhí của tôi, nàng chỉ thoáng nhìn tôi một chút rồi quay gót về hậu trường. Đêm đó tôi nôn nao không ngủ được. Trong lòng nổi dậy biết bao là mộng mơ, thắc mắc. Những câu hỏi cứ hiện ra trong đầu, nhưng tôi không dám trả lời dễ dàng cho mình thỏa mãn. Nhưng câu hỏi cứ trở đi, trở lại trong tôi là: - Liệu nàng có để ý gì đến bản nhạc mà tôi đã thao thức bao đêm để làm nên vì nàng không? Hay nàng chỉ khách sáo cầm hờ rồi vứt bỏ nó ở đâu đó! Vứt đi! Tim tôi đau nhói khi nghĩ đến hai chữ ấy.
Suốt gần một tuần, tôi hồi hộp theo dõi nàng mỗi đêm, đón từng ánh mắt nàng nhìn xuống khán giả thử xem nàng có dừng lại nơi tôi không, để tôi hy vọng. Nhưng không, vẫn như mọi lần. Một cái nhìn chung để gây cảm tình chung. Mãi đến hai tuần sau, khi tôi sắp tuyệt vọng vì mỏi mòn chờ đợi thì một đêm kia, khi bước lên bục diễn, dàn nhạc dạo khúc mở đầu thì nàng ra dấu cho ban nhạc tạm im tiếng cho nàng nói vài lời. - Thưa quí vị! - Nàng bắt đầu nói và tôi hồi hộp chờ đợi.- Đêm nay Thúy sẽ trình bày một tác phẩm mới của một nhạc sĩ rất lạ, tặng cho Thúy. Đó là nhạc phẩm "Ướt Mi" của tác giả Trịnh Công Sơn. Hy vọng rằng đêm nay sẽ có sự hiện diện của tác giả để Thúy được nói vài lời cám ơn. Nói xong, nàng quay sang ban nhạc, đưa bản nhạc của tôi cho họ dạo nhạc bắt đầu. Nàng cất tiếng hát. Tôi run lên trong lòng vì sung sướng và xúc động. Khi dứt tiếng hát, nàng dừng lại khá lâu, có ý chờ người tặng nhạc. Tôi thu hết can đảm, bước tới bục, ngước lên và nói: - Xin cám ơn Thanh Thúy đã hát bài nhạc của tôi. Nàng a lên một tiếng ra vẻ bất ngờ rồi nói tiếp: - Thúy rất cám ơn anh đã tặng cho bản nhạc. Thúy muốn nói chuyện riêng với anh được không? Tôi luống cuống gật đầu. Lúc ấy tôi sung sướng quá, hạnh phúc quá nên không tìm ra được lời nào để đáp lại. Tôi cùng nàng đón taxi về nhà nàng. Nhà nàng ở sâu trong một ngõ hẽm. Căn nhà khang trang, đầy đủ tiện nghi: tủ lạnh, quạt máy. Mọi vật dụng trong nhà đều sang trọng, đắt tiền. Tối hôm ấy nàng cùng tôi nói đủ thứ chuyện. Tôi không còn nhớ chuyện gì ra chuyện gì. Tôi kể cho nàng nghe hoàn cảnh của tôi từ Huế vào trọ học. Nàng kể cho tôi nghe cuộc đời nàng từ Phan Thiết lớn lên...
NẮNG CHIỀU...
Năm 1950, anh Lê Trọng Nguyễn trở về ẩn náu tại quê nhà. Và năm 1953, anh sáng tác bản “Nắng Chiều”. Trong một cuộc phỏng vấn, Lê Trọng Nguyễn đã nói: "Tôi viết bản đó ở Huế, thời gian sau khi bỏ vùng kháng chiến về thành... Tâm sự tôi trong bài Nắng chiều nó như thế này, kể anh nghe cho vui. Sau cuộc đảo chính của Nhật vào đêm 9 tháng 3 năm 45, có một gia đình công chức Nam triều từ Quy Nhơn chạy ra tạm trú ở Hội An, mà tôi cũng ở Hội An lúc đó. Gia đình đó có một người con gái. Tôi yêu người con gái ấy!".Nắng Chiều ra đời trong một lần hứng tác của Lê Trọng Nguyễn trên cầu Vĩnh Điện khi chiều xuống ở bến sông Thu Bồn. Hiệp Ðịnh Geneva ký kết xong, năm 1954 Lê Trọng Nguyễn ra Huế và Ðà Nẵng làm việc cho cơ sở thương mại ngoài đó. Cũng chính nơi đây, anh có dịp quen và làm bạn cho đến chót cuộc đời nghệ sĩ sáng tác của anh, với những Minh Trang, Dương Thiệu Tước, Kim Tước, Nguyễn Hiền v.v.. Và ca khúc Nắng Chiều được xuất bản trong lúc này. Người thâu tiếng hát đầu tiên bản Nắng Chiều vào dĩa nhựa là ca sĩ Minh Trang. Giữa năm 1955, người em gái duy nhất của anh Lê Trọng Nguyễn là Lê Thị Ba qua đời, anh quá đau buồn và đem bản Nắng Chiều ra ký giao kèo tái bản để có một món tiền tác quyền khiêm nhường đưa về quê cùng mẹ lo liệu cho em gái và chuẩn bị nuôi nấng cháu. Năm 1957, Lê Trọng Nguyễn vào Sài Gòn. Ðúng dịp đoàn ca nhạc Nhật Bản sang thăm, ban nhạc Toho Geino có nhờ người chọn ra 12 bản nhạc Việt Nam đang nổi tiếng thời đó để chuẩn bị tập dượt và trình diễn tại Sài Gòn lẫn Nhật Bản, trong đó có bản “Nắng Chiều” và bản này đã được cô ca sĩ nhật Midori Satsuki hát. Năm 1960 Ki Lo Ha, một ca sĩ người Hoa, cô yêu mến bản Nắng Chiều nên viết sang lời Hoa ngữ và phổ biến bản này sang Ðài Loan và Hồng Kông. Nhờ mấy may mắn đó mà Nắng Chiều cứ thế được biết tới tại ngoại quốc... Những ngày gần đây, Vũ Trung Hiền, Phạm Anh Dũng và tôi cùng nhau làm việc cho cuốn CD Collection #2. Nảy ra ý định thu được bản Nắng Chiều hát bằng tiếng Nhật, chúng tôi cố gắng vào Net để tìm tung tích bà Midori Satsuki, một người đã nổi danh hơn bốn mươi năm nay và vẫn còn hoạt động trên Ðài Truyền Hình Ðông Kinh. Và kết quả liên lạc được với nơi sản xuất CD ca nhạc bên Nhật nữa. Bà Midori Satsuki trực tiếp gọi phôn nói chuyện với tôi. Và sau đó được sự giúp đỡ của hai anh Ðỗ Thông Minh và Phan Hiên, bà Midori xác nhận vẫn còn nhớ bản Nắng Chiều. Ðối với tôi, Nắng Chiều được hát bằng Hoa ngữ và Nhật ngữ từ 40 năm nay như một kỷ niệm đẹp bền của tình thân hữu văn hóa Á Châu. Nhưng đặc biệt bản Nắng Chiều bằng lời Việt mới có ý nghĩa hơn cả: Nó đã được viết ra từ trên nửa thế kỷ qua mà nay chúng ta nghe lại vẫn thấy sống động, bùi ngùi cảm động. Tôi muốn nói đến nét trẻ trung trường tồn của ca khúc Nắng Chiều trong nền âm nhạc Việt Nam - Á Châu.
Bài hát viết theo điệu Rumba, giai điệu rộn rã phối hợp giữa ngũ cung và thất cung, lời ca đầy hình ảnh, màu sắc, nhưng nội dung phảng phất nét buồn. Phần lời nói lên tâm trạng hoài tiếc của một người khi thăm lại cảnh xưa. Trông thiên nhiên, cảnh vật vẫn hồn hậu sống động, lòng ấy bồi hồi nhớ lại một hình bóng đẹp tươi, nay đã không còn: Qua bến nước xưa lá hoa về chiều lạnh lùng mềm đưa trong nắng lưa thưa ...anh nhớ trước đây dáng em gầy gầy Dịu dàng nhìn anh đôi mắt long lanh Bản dịch tiếng Hoa về nội dung nhìn chung vẫn giữ ý chính của bài: 我又來到昔日海邊,海風依舊吹皺海面 那樣熟悉那樣依戀,只有舊日人兒不見 (Tôi về thăm lại bến nước xưa, gió biển như năm cũ, thổi lộng vào mặt, bóng dáng cũ vẫn in đậm trong tâm trí tôi, nhưng người xưa thì không thấy nữa Nắng chiều Qua bến nước xưa lá hoa về chiều lạnh lùng mềm đưa trong nắng lưa thưa khi đến cuối thôn chân bước không hồn Nhớ sao là nhớ đến người ngày thơ Anh nhớ trước đây dáng em gầy gầy Dịu dàng nhìn anh đôi mắt long lanh Anh nhớ bước em khi nắng vương thềm Má em mầu ngà tóc thề nhẹ bay Nay anh về qua sân nắng chạnh nhớ câu thề tim tái tê chẳng biết bây giờ người em gái duyên ghé về đâu Nay anh về nương dâu úa giọng hát câu hò thôi hết đưa hình bóng yêu kiều kề hoa tím biết đâu mà tìm Anh nhớ xót xa dưới tre là ngà Gợn buồn nhìn anh em nói em nói: "Mến anh!" Mây lướt thướt trôi khi nắng vương đồi Nhớ em dịu hiền nắng chiều ngừng trôi...
MỘNG DƯỚI HOA...
Nhạc sĩ Phạm Đình Chương đã đóng góp nhiều tác phẩm thật đẹp, như những hạt kim cương lóng lánh, vào kho tàng âm nhạc Việt Nam - đây tôi không có tham vọng trình bầy về sự nghiệp sáng tác phong phú và giá trị của ông, mà chỉ xin ghi lại một giai thoại nhỏ đã được chính ông kể trong một lần tôi chở ông trên xe khi đi thăm ca sĩ Hoài Trung đang nằm trong một bệnh viện ở Pasadena vào năm 1990 . Khi tôi hỏi về trường hợp sáng tác bản MỘNG DƯỚI HOA thì ông cho hay là khoảng năm 1957 gì đó, ông đọc tập thơ Đường Vào Tình Sử của Đinh Hùng, thấy bài Tự Tình Dưới Hoa hay hay, có nhiều hình ảnh đẹp, lời thơ có vẻ cổ điển ước lệ với mỹ nhân, với trăng sao, mây nước, suối rừng, mơ mộng . . . v. v . . . ông bèn âm ư nho nhỏ trong miệng, rồi bật ra thành những nốt nhạc đầu tiên, và ông đã ghi lại trên giấỵ Khi phần nhạc đã hoàn chỉnh thì chỉ có một số lời thơ được giữ nguyên văn, ngoài ra chính ông và thi sĩ Đinh Hùng đã gọt giũa lại rất nhiều . Đến phần điệp khúc, thì cấu trúc của bài nhạc lại thay đổi, không thể dùng 7 chữ được vì chỉ có 6 nốt, nên ông đã yêu cầu Đinh Hùng đặt lời mới cho đoạn đó . Dĩ nhiên công việc này không quá khó khăn với nhà thơ và cũng có phần đóng góp của chính Phạm Đình Chương . Từ đó, 2 đoạn điệp khúc 6 chữ đã được lồng vào giữa bài hát, một cách rất khéo léo, tự nhiên và nhất quán, nghĩa là vẫn giữ được không khí rất lãng mạn và cổ điển của bài thơ.
Trích đọan bài báo: "Một chút giai thoại về bài hát Mộng Dưới Hoa" của Nguyễn Đình Cường đăng trong báo "Văn Nghệ", số 7, 2001 (trang 64-65, Lê Xuân Trường chủ biên). Nguyễn Đình Cường Mộng Dưới Hoa (nhạc Phạm Đình Chương - thơ/lời Đinh Hùng) Chưa gặp em, tôi vẫn nghĩ rằng Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng Mắt xanh lả bóng dừa hoang dại Âu yếm nhìn tôi không nói năng Ta gặp nhau yêu chẳng hạn kỳ Mây ngàn gío núi đọng trên mi Áo bay mở khép nghìn tâm sự Hò hẹn lâu rồi em nói đi Nếu bước chân ngàn có mỏi Xin em dựa sát lòng anh Ta đi vào tận rừng xanh Vớt cánh rong vàng bên suối Ôi hoa kề vai, hương ngát mái đầu Đêm nào nghe bước mộng trôi mau Gió ơi gởi gió lời tâm niệm. Và nguyện muôn chiều ta có nhaụ .Tôi cùng em, mơ những chốn nào Ước nguyện chung giấc mộng trăng sao Sánh vai một mái lầu phong nguyệt Hoa bướm vì em nghiêng cánh chao Hy vọng thơm như má chớm đào Anh chờ em tới hẹn chiêm bao Dưới hoa tưởng thấy ngàn sao rụng Hoa lệ ân tình môi khát khao Bước khẽ cho lòng nói nhỏ Bao nhiêu mộng ước phù du Ta say thành mộng nghìn thu Núi biếc sông dài ghi nhớ Ôi chưa gặp nhau như đã ước thề Mây hồng giăng tám ngã sơn khê Bóng hoa ngã xuống bàn tay mộng Và mộng em cười như giấc mơ Tự tình dưới hoa (Thơ Đinh Hùng) Chưa gặp em, tôi vẫn nghĩ rằng: Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng, Mắt xanh lả bóng dừa hoang dại, Thăm thẳm nhìn tôi, không nói năng Bài thơ hạnh ngộ đã trao tay, Ôi mộng nào hơn giấc mộng nàỷ Mùi phấn em thơm mùi hạ cũ, Nửa như hoài vọng, nửa như say Em đến như mây, chẳng đợi kỳ Thương hàng gió núi động hàng mi Tâm tư khép mở đôi tà áo, Hò hẹn lâu rồi -- Em nói đi Em muốn đôi ta mộng chốn nàỏ Ước nguyền đã có gác trăng sao Chuyện tâm tình: dưới hoa thiên lý, Còn lối bâng khuâng: ngõ trúc đào Em chẳng tìm đâu cũng sẵn thơ, Nắng trong hoa, với gió ven hồ Dành riêng em đấỵ Khi tình tự, Ta sẽ đi về những cảnh xưa Rồi buổi u sầu, em với tôi Nhìn nhau cũng đủ lãng quên đời Vai kề một mái thơ phong nguyệt, Hạnh phúc xa xa mỉm miệng cười Suôi Dòng Mộng Ảo Chim hồng về khu rừng cũ, Xuân ấy hai lòng mới yêu . Cùng hoa, bướm trắng sang nhiều, Nắng thơm những chiều tình tự . - Xin em ngồi trên nhung cỏ, Nghe suối ca vui nhịp nhàng. Anh ru cho hồn em ngủ, Bằng điệu ca sang dịu dàng. Chim xanh về khu rừng cũ, Hè tới, hai lòng còn yêu . Cỏ thơm mọc đã cao nhiều, Cành mộng bao nhiêu hoa đỏ! - Nếu bước chân ngà có mỏi, xin em dựa sát lòng anh. Ta đi vào tận rừng xanh, Vớt cánh rong vàng bên suối. Lá đỏ rơi trong rừng cũ, Thu về, hai lòng còn yêu. Đường tình trải một làn rêu, Ngơ ngẩn hồn chiều tư lự. - Em có lên sườn núi biếc, Nhặt cánh hoa mơ gài đầu. Này đôi nai vàng xa nhau, Có tiếng gọi sầu thảm thiết. Chim buồn xa khu rừng cũ, Đồi núi trập trùng cỏ rêu. Hai lòng nay đã thôi yêu, Có tiếng suối chiều nức nở. - Em không nghe mùa thu hết? Em không xem nắng thu tàn? Trời ơi! Giọt lệ này tan, Là lúc linh hồn anh chết!
CÁT BỤI...
Vào một buổi chiều ngày tháng không còn nhớ, tôi một mình đến rạp Casino xem phim.” Hiệp sĩ mù nghe gió kiếm” tập 6 . Đây là bộ phim nhiều tập, đã xem tập này thì không thể không chờ xem tập khác. Nói chung là tập nào cũng hấp dẫn. Trong 6 tập có đoạn hiệp sĩ mù xuất kiếm giải cứu cho một nàng Kiều xinh đẹp. Cứ mỗi tuyệt chiêu xuất ra là nghe có một tiếng nói bình giả ca ngợi. Đường kiếm như có thêm sức mạnh mỗi lúc một uyển chuyển huy hoàng hơn. Sau khi cứu được nàng Kiều, hiệp sĩ mù quay về phía tiếng nói vái tay chào hỏi., Hoá ra bên vệ đường dưới gốc cây to có một người mù khác đang ngồi xếp bàn, trên hai chân có cây đàn bọc trong bao vải gác ngang.Người nghệ sĩ mù có nhã ý chơi một bản đàn tặng hiệp sĩ mù. Hai người bèn kéo nhau vào một khu rừng gần đấy. Hình như rừng vào thu nên các cành đều trơ lá, chỉ thấy một đám lá vàng đỏ trải dài trên mặt đất. Hai người ngồi tựa vào hai gốc cây đối diện nhau. Tiếng đàn cất lên như một lời than thở ngậm ngùi về đất trời, về kiếp người. Tiếng đàn nửa chừng bỗng đứt giây. Người nghệ sĩ mù nói : có kẻ bất thiện dang nghe lén. Quả đúng như vậy, có một tên gian đang rình rập hiệp sĩ mù. Thế là hai người lặng lẽ chia tay.
Hết phim, tôi tản bộ ngang trên đường phố. Không hiểu sao cái đoạn phim ngắn ngủi ấy khiến tôi buồn buồn. Chiều tôi về nhà, sau khi ăn, tôi ngồi đọc lại cuốn “ Zorba le Grec”. Đến đoạn Zorba than thở : “ Chim đa đa ơi thôi đừng hót nữa, tiếng hót mày làm tan nát tim ta”, tôi bỗng gập sách lại và không đọc nữa. Có một cái gì đó thật trùng hợp trong cùng một buổi chiều. Một nỗi buồn hay một điều gì đó gần với sự rời xa ly biệt đang cựa mình thức dậy trong tôi.Tôi lại ra đường tìm một góc quán quen thuộc ngồi. Trên đường trở về nhà, trong đầu bỗng vang lên một tiếng hát. Tôi lập đi lập lại nhiều lần trong đầu, hát thành tiếng khe khẽ. Đến khi về nhà ghi lại thì bài hát đã gần như hoàn chỉnh. Sáng hôm sau mang hát cho một số bạn bè nghe, hầu như ai cũng thích.
Đó là câu chuyện sự ra đời của bài “ Cát bụi”
Mỗi bài hát đều bắt nguồn từ một duyên cớ nào đó. Có khi từ một câu chuyện không đâu.
Bây giờ thì người hiệp sĩ mù kia đã chết rồi. Khoảng hai năm nay.
Người viết Zorba đã qua đời dĩ nhiên con chim đa đa kia cũng đã chết. Và nếu Zorba là một con người có thật được Nikos Kazantzakits tỉểu thuyết hoá thì nay ông cũng mất rồi.
“ Tiếng động nào gõ nhịp không nguôi…”
Thời gian đã nghiền nát tất cả thành cát bụi hết rồi...
ẢO ẢNH...
Sau hai năm lập gia đình, ở một buổi trình tấu nhạc nơi đài phát thanh Saigon vừa tan, khoảng năm 1965, (lúc bấy giờ Y Vân là nhạc trưởng của một ban nhạc lớn: ban nhạc Y Vân, cùng với Thanh Thoại, Tuyết Mai, Mai Hương làm nền trình diễn) trên đường về, Y Vân được một chú bé "Stop" xe anh lại và mời vào một quán café bên đường. Nơi này có một thiếu nữ nhan sắc đang ngồi chờ sẵn, chú bé giới thiệu người thiếu nữ này tên Huyền - sinh viên ban Việt Hán đại học Văn Khoa Saigon.
Huyền có đôi mắt buồn não nề, trên bâu áo có chít một mảnh tang đen. Y Vân cố moi lại trong ký ức một thân quen nào đó từ người thiếu nữ đối với anh, nhưng vẫn không tìm ra một liên hệ nào. Bằng xã giao bình thường, người Nhạc Trưởng bèn buông lời chia buồn một cách bâng quơ, vịn vào cớ mảnh tang đen đính trên áo người thiếu nữ. Huyền cười thảm não: "Em đâu có ai là người thân quen qua đời, mảnh tang này là dành cho mối tình em đó". Sau lời minh biện như vậy, Y Vân bị đưa vào thế ngượng ngùng. Anh đã manh nha về một bí ẩn nào đó, thôi thúc người thiếu nữ này muốn diện kiến anh. Nhưng nỗi sầu man mác ẩn chứa trên khuôn mặt gấm hoa ấy, khiến cho Y Vân ái ngại không dám hỏi thăm thêm. Chàng viện cớ bận rộn và xin cáo từ. Trước khi từ giã Huyền và chú bé, Y Vân xin địa chỉ hai người để còn dịp gặp lại lần khác.
Hai ngày sau đó, Y Vân tìm đến nhà Huyền trong một khu nghèo nàn có chiếc cầu cao vắt ngang ao rau muống đường Trương Minh Giảng. Lòng rối bởi một chuyện không đâu, người nhạc sĩ Y Vân bỏ những bước chầm chậm, đếm mòn ưu tư gập ghềnh theo nhịp gỗ. Sau tiếng gõ cửa đầu tiên, Y Vân được chú bé em Huyền ra mở cửa. Căn nhà vách gỗ đơn sơ cũng đìu hiu như chủ, giống như bốn câu thơ của Lưu Khâm: "Nhà vắng tơ giăng sầu cõi nhện Chiếu khăn nằm lạnh lẻ loi tình Êm đềm mà nghe con nước vỗ Đàn ai vừa đứt một giây trầm." Huyền không có mặt ở nhà. Cậu bé kể: "Chúng tôi là con một ông Hội Đồng ở tỉnh Long An. Hai chị em được gia đình gởi lên Saigon trọ học. Chị Huyền yêu anh không biết từ lúc nào, cho nên sách vở biếng lười. Trong tập vở học trò, chỉ chép toàn nhạc anh - thay vì tiền gia đình gửi lên cung cấp cho chị hoàn tất ban cử nhân Văn Khoa, chị Huyền phung phí vào một lớp học nhạc Tây Ban Cầm cho đến khi chị đàn được, suốt ngày chỉ đệm và hát nhạc anh. Hát một mình đơn lẻ. Mấy năm liên tục, chị không đậu thêm được một chứng chỉ nào. Ba mẹ nhiều lần từ tỉnh lên thăm, thấy con gái tiều tụy, biếng ăn lười học, nên đã đưa hai chị em trở về quê nhà cấm cố, và bắt ép gả chồng cho chị - một sĩ quan hải quân, hình như người ấy có tên là L.T.Đ, ông ấy đẹp trai, có chức phận, con nhà giàu, nhưng chị Huyền vẫn một mực chối từ. Bẽ mặt với phía đàng trai mà không hiểu được tấm lòng người con gái đã gửi trọn về mối tình anh. Ba mẹ buông lời từ đứa con không vâng lời ấy. Chị Huyền chặt dạ ôm ấp mối tình ảo ảnh của anh, nên trốn bỏ gia đình trở lại Saigon, nơi mà chị đã dại khờ mở cửa con tim tuổi thanh xuân yêu một chiều người nhạc sĩ Y Vân. Chị một mình tìm kế mưu sinh để chờ dịp gặp anh, hy vọng hai con tim cùng hòa nhịp. Đến khi biết rõ ra anh đã có vợ, chị Huyền đớn đau như chiếc cây gục ngã giữa bão tình. Kể từ đó, chị chít tang đen trên bâu áo. Giã từ người yêu không tưởng, chôn chết nỗi si mê dại khờ. Tội nghiệp chị Huyền, tưởng với mảnh vải đen có thể làm nhát dao chặt đứt mối tơ tưởng tình yêu. Nhưng không, tình chết trên mảnh vải sô, mà lại sống hoài nơi lòng chị ấy. Chị muốn gặp anh để nói điều này. Và chị đã không dám nói, làm con ốc mượn hồn, yêu thương chôn chặt mối hận tình..." Nghe đến đây, Y Vân gục đầu xuống bàn. Anh nào có biết oan nghiệt ấy đã đến từ anh cho người con gái yêu thương không dám nói. Anh ra về như chạy. Hình như có bóng ai đang rượt đuổi đòi hỏi một ân tình. Nhạc phẩm "Ảo Ảnh" ra đời sau buổi ra về với trọn đêm thức trắng. Trí tưởng tượng của anh đi trên niềm hối hận. Ảo ảnh cuộc đời, ảo ảnh tình yêu đã có thực nơi những tâm hồn lãng mạn: Yêu mặn nồng, đắng cay, tha thiết. Gió ở trên non, gió cuốn mây trôi, cho dù bầu trời vẫn xanh thờ ơ không mảy may hay biết: Yêu cho biết bao đêm dài Cho quen với nồng cay Yêu cho thấy bao lâu dài Chỉ còn vài trang giấy Giòng mực xanh còn đấy Hứa cho nhiều dù bao lời nói Đã phai tàn thành mây thành khói Cũng xem như không mà thôi Những ân tình em đong bằng nước mắt Khóc cho đầy hai chữ tình yêu Phấn hương nồng anh xem tựa tấm áo Đã thay màu ân ái từ lâu Những neo thuyền yêu thương dễ đứt Khiến bao chiều trên bến tịch liêu Vắng con tàu sân ga thường héo hắt Thiếu anh lòng em thấy quạnh hiu Xưa đêm vắng đưa nhau về Nay đơn bóng đường khuya Khi vui thấy trăng không mờ Lòng buồn nên trăng úa Kìa phồn hoa còn đó Những con đường buồn vui lộng gió Những ân tình chìm trong lòng phố Cũng theo hư không mà đi...
LÒNG MẸ...
Mồ côi cha, nhà nghèo, mấy mẹ con dắt díu nhau nương náu trong một túp lều xiêu vẹo ở ngõ chợ Khâm Thiên. Chính vì thế,Y Vân rất thương mẹ và các em. Chàng nhạc sĩ nghèo phải đi dạy đàn để nuôi gia đình
Y Vân là nhạc công chơi đại hồ cầm cho các nhà hàng ở Sài Gòn để kiếm tiền nuôi mẹ già và 2 em (1 gái, 1 trai) ăn học. Nhà chúng tôi ở cư xá Đô Thành, mỗi đêm khi anh đi chơi nhạc thì bà cụ ở nhà bê thau quần áo của anh ra giặt ở máy nước công cộng. Có một đêm, bà cụ giặt đến 2 giờ sáng thì... bị cảnh sát bắt về bót vì tội... phá lệnh giới nghiêm! Đến sáng, anh tôi về nhà, biết chuyện đã vừa khóc vừa viết: "...Lòng mẹ thương con như vầng trăng tròn mùa thu. Tình mẹ yêu mến như làn gió đùa mặt hồ. Lời ru man mác êm như sáo diều dật dờ. Nắng mưa sớm chiều vui cùng tiếng hát trẻ thơ... Thương con thao thức bao đêm dài, con đà yên giấc, mẹ hiền vui sướng biết bao. Thương con khuya sớm bao tháng ngày, lặn lội gieo neo, mái tóc trót đành đẫm sương...".
Viết xong, anh hát cho mẹ nghe. Lần này thì cả hai mẹ con đều khóc...
NỖI BUỒN HOA PHƯỢNG...
Năm 13 tuổi,cậu học sinh trường làng Hoàng Diệu (Sóc Trăng)thầm yêu cô một bạn học khá dễ thương với cái tên cũng khá lạ: Nguyễn Thị Hoa Phượng Tình yêu tuổi học trò hồn nhiên, lãng mạn. Cô bé này là con của môt gia đình công chức Sài Gòn được biệt phái về làm việc tại Sóc Trăng. Qua một năm học chung, tình cảm bắt đầu thân thiết, hè năm sau Hoa Phượng đột ngột báo tin gia đình cô lại được điều chuyển về lại Sài Gòn, nên cô tìm gặp tôi để chào từ biệt. Trong lúc vừa bất ngờ, vừa buồn rười rượi, tôi hỏi xin địa chỉ để sau này liên lạc. Hoa Phượng trả lời tôi với gương mặt buồn lẫn nước mắt: "Tên em là Hoa Phượng. Mỗi năm đến hè nhìn hoa phượng nở thì hãy nhớ đến em".Từ đó chúng tôi bặt tin nhau...
Bẵng đi thời gian khá lâu, khi đã nổi tiếng ở Sài Gòn với nghệ danh nhạc sĩ Thanh Sơn, mùa hè 1961, bất chợt trông thấy những cành phượng đỏ thắm khi ngang qua một sân trường, tôi bỗng nhớ lại lời của “người xưa” lúc chia tay... Vào một đêm hè oi bức,lòng đầy hoài niệm, tôi đã viết: “Nếu ai đã từng nhặt hoa thấy buồn, Cảm thông được nỗi vắng xa người thương, Màu hoa phượng thắm như máu con tim...
ĐÊM ĐÔNG...
Khi do tôi mới hai mươi tuổi. Một anh chàng sinh viên nghèo xác, đêm ba mươi không có tiền về quê ăn tết,buồn, nhớ tái tê lắm, đi lang thang trong cái lạnh Hà Nội,với bộ quần áo tây cũ và đôi giày tây rộng thùng thình, nhìn người qua tay xách nách mang, lũ lượt bước lên chuyến tàu cuối năm với tiếng còi dục giã. Từ nỗi niềm riêng, tôi chạnh lòng liên tưởng để chia sớt với những ai cùng cảnh ngộ phải xa nhà trong đêm giao thừa. chỉ đủ tiền...ăn ổ bánh mì,tôi dạo qua phố Khâm Thiên, phố ả đào nổi tiếng của Hà Nội bấy giờ, mong tìm một chút ấm lòng giữa khu phố dập dìu đó. Thế nhưng ngay cả khu phố ăn chơi này cũng vắng ngắt, một cô đào nghe tiếng loẹt quệt trên đường (chứ lúc ấy làm gì dám bén mảng đến cửa nhà ả đào!) ra đưa mắt nhìn rồi chán nản quay vào, chỉ còn kịp thấy phản chiếu trong gương một cánh tay trần trắng nuỗn xanh xao.
Lang thang khắp nơi rồi cũng về đến nhà trọ ở số 10 phố Hội Vũ, cạnh nhà thương Phủ Doãn, lên gác trọ rồi mà nỗi cô đơn buồn thương cộng vào gió thổi mạnh qua khe cửa sổ mãi đến khuya không dứt.
Buồn, chán đời và chán bản thân mình, quay về gác trọ và giữa tiếng gió lạnh gào rú bên ngoài, tôi chạnh lòng liên tưởng để chia sớt với những ai cùng cảnh ngộ phải xa nhà trong đêm giao thừa "đêm Đông - xa trông cố hương buồn lòng chinh phu, đêm Đông – bên song ngẩn ngơ kìa ai mong chồng...".. Viết một mạch xong Đêm đông, từ thân phận mình, cảm thân phận người. Bài hát lặp lại mãi từ đêm đông, điệp lại mãi sự điên cuồng của gió:
Đêm Đông Nguyễn Văn Thương 1 . Chiều chưa đi màn đêm rơi xuống Đâu đấy buông lững lờ tiếng chuông Đôi cánh chim bâng khuâng rã rời Cùng mây xám về ngang lưng trời Thời gian như ngừng trong tê tái Cây trút lá cuốn theo chiều mây Mưa giăng mắc nhớ nhung, tiêu điều Sương thướt tha bay, ôi! đìu hiu Đêm đông, xa trông cố hương buồn lòng chinh phu Đêm đông, bên song ngẩn ngơ kìa ai mong chồng Đêm đông, thi nhân lắng nghe tâm hồn tương tư Đêm đông, ca nhi đối gương ôm sầu riêng bóng Gió nghiêng, chiều say Gió lay ngàn cây, Gió nâng thuyền mây Gió reo sầu miên Gió đau niềm riêng Gió than triền miên Đêm đông, ôi ta nhớ nhung Đường về xa xa Đêm đông, ta mơ giấc mơ, gia đình, yêu đương Đêm đông, ta lê bước chân phong trần tha phương Có ai thấu tình cô lữ, đêm đông không nhà 2 Đời như vô tình ta ngao ngán Non nước thê thảm mang cảnh tang Thân lãng du cô liêu chán chường Về đâu giữa trời đông đêm trường Sầu lên khơi hồn quê lai láng Ta van gió nhân mưa ngừng than Cho ta lắng tiếng vang muôn lòng Rên rỉ qua không gian buồn mong.
GIỌT LỆ ĐÀI TRANG...
Thập niên 40 của thế kỷ trước, nhạc sĩ Châu Kỳ còn là một chàng nghệ sĩ ở độ tuổi đôi mươi sống ở đất Kinh Kỳ (cố đô Huế bây giờ) ông đã có quen biết với một nàng tiểu thư Tôn Thất có tên là Công Tằng Tôn Nữ . Hải Anh luôn sống trong lầu vàng gác tía nhưng mà cô nàng tiểu thư này rất tự cao vì dù sao mình cũng là dòng dõi Tôn Thất nhà Nguyễn. Một lần khi cô tiểu thư đứng chơi ở ban công nhà mình, chàng nhạc sĩ cầm đàn ghi ta đứng dưới đất vừa đánh đàn vừa tỏ tình, nhìn lên lầu của nhà Hải Anh, thì chàng nhạc sĩ Châu Kỳ bị cô nàng làm cụt hứng với một câu nói xanh rờn buông xuống “ Đồ xướng ca vô loài” và quay mặt bỏ đi vô nhà. Sau nhiều năm trôi qua, nhạc sĩ Châu Kỳ đã vào Sài gòn và tiếp tục con đường nghệ thuật sáng tác nhạc chuyên nghiệp thì tình cờ gặp lại cô Hải Anh trong bộ dạng tiều tuỵ đi trên phố Sài Gòn. Ban đầu cô ta cảm thấy mắc cỡ và cố tình lảng tránh nhạc sĩ nhưng ông vẫn bám theo và hỏi han tình hình gia cảnh hiện tại của cô thì cô nàng đã khóc và nói những câu nói tỏ ra hối hận vì ngày xưa đã thoá mạ nhạc sĩ. Trong hoàn cảnh đó cô nàng chỉ còn 5 xu .... cô không đủ tiền để mua một cái bánh lót dạ vì đã nhiều ngày nhịn đói. Sau nhiều lần hỏi thăm dò chỗ ở của cô Hải Anh, nhac sĩ đã biết được và còn đau đớn hơn khi biết cô ấy đã lâm vào con đường hút sách và qua một thời gian ngắn thì cô Hải Anh đã chết vì sốc thuốc. Bài hát Giọt lệ Đài trang được ra đời trong hoàn cảnh đó. Lời bài hát thật cảm động và đầy tính chất thương xót khi ông thể hiện trên nền nhạc Bolero...
NHỮNG ĐỒI HOA SIM...
Với mảnh bằng tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà Tham Kỳ chú ý, vời về nhà dạy kèm cho hai đứa con nhỏ. Tên thật của bà Tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất, bà là vợ của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên. Ở Thanh Hóa, bà Tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt đến (theo Lê Thọ Bình, báo đã dẫn).
Bà Tham Kỳ là một người hiền lành tốt bụng, đối xử với tôi rất đàng hoàng tử tế, coi tôi chẳng khác người nhà. Nhớ lại ngày đầu tiên khoác áo gia sư, bà gọi mãi, đứa con gái - lúc đó mới 8 tuổi - mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay miệng lí nhí: "Em chào thầy ạ!" Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh ở trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu đó nhưng ít nói và mỗi lần mở miệng là cứ y như một "bà cụ non". Đặc biệt em chăm sóc tôi hàng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng ướt em vừa hái ở vườn; những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà đem ra giếng giặt...
Có lần tôi kể chuyện "bà cụ non" ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em dỗi! Suốt một tuần liền, em nằm lì ở buồng trong, không chịu học hành... Một hôm bà Tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện cho em nghe; rồi tôi đọc thơ... Trưa hôm ấy, em ngồi dậy, ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý: "Mới ốm dậy, còn yếu lắm, không đi được đâu!" Em không chịu, nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà Tham Kỳ đưa em lên núi chơi...
Xe kéo chạy chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc con, tôi đuổi theo muốn đứt hơi! Lên tới đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em. Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời. Không biết lúc đó em nghĩ gì. Bất chợt em hỏi tôi:
- Thầy có thích ăn sim không?
Tôi nhìn xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em đứng lên, đi xuống sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ... Khi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen nhánh, chín mọng.
- Thầy ăn đi!
Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng và trầm trồ:
- Ngọt quá!
Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim đối với tôi chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật chưa bao giờ tôi được ăn những quả sim ngọt đến thế!
Cứ thế, chúng tôi ăn hết quả này đến quả khác. Tôi nhìn em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi cũng đỏ tím, hai bên má thì... tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo!
Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà Tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi... Lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng, em vẫn đứng đó, nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi... Tôi quay đầu nhìn lại... Em vẫn đứng yên đó...Tôi lại đi và nhìn lại cho tới khi không còn nhìn thấy em nữa...
Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi có nhận được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 đã có nhiều chàng trai đến ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ...
Chín năm sau, tôi trở lại nhà... Về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em, hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn là cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp...
Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ vì hai gia đình không "môn đăng hộ đối" một chút nào. Mãi sau mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm "soạn kịch bản".
Một tuần sau đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, "không đòi may áo mới trong ngày hợp hôn", bảo rằng là: "Yêu nhau, thương nhau cốt cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả". Tôi cao ráo, học giỏi, làm thơ hay lại... đẹp giai nên em thường gọi đùa là ông chồng độc đáo.
Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết!
Hai tuần phép của tôi trôi đi thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ. Hôm tiễn tôi lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ có giờ đây em không còn là cô bé Ninh nữa mà đã là người bạn đời yêu quý của tôi. Tôi bước đi, tôi lại quay đầu nhìn lại... Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ cảm thấy một nỗi buồn man mác thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống.
Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời!
(Thi sĩ Hữu Loan kể)
TÔI ĐI GIỮA HOÀNG HÔN...
Châu Hà đi rồi, một thời gian sau Văn Phụng cũng được bố mẹ cưới vợ. Ông chấp nhận như là để khỏa lấp những trống vắng mà Châu Hà đã để lại cho mình.nhưng....tình xưa đâu dễ quên... Tất cả những nỗi nhớ thương đều được ông đưa vào các ca khúc của mình ... Rồi không ngăn được tiếng gọi của con tim, Văn Phụng vào Nam. Châu Hà lúc này đã trở thành ca sĩ chuyên hát ở đài phát thanh và các phòng trà cùng thời với những Mộc Lan, Linh Sơn, Ánh Tuyết... Văn Phụng cũng mau chóng hòa nhập vào làng ca nhạc miền Nam. Không chỉ sáng tác ca khúc, ông còn thành lập ban tam ca nam đầu tiên ở Việt Nam với Văn Phụng - Anh Ngọc - Nhật Bằng (1953-1954). "Tình cũ không rủ cũng tới" nhưng... không phải dễ dàng gì bởi còn đó những trói buộc gia đình, còn những lời đàm tiếu, dị nghị chung quanh. Chính những lúc buồn nản nhất, Văn Phụng đã viết Tôi đi giữa hoàng hôn (1962) với điệu slow rock: Tôi đi giữa hoàng hôn Khi ánh chiều buông, khi nắng còn vương Một mình tôi ngắm cánh chim lạc loài Mà lòng mình thấy u hoài Tôi thương nhớ ngày qua, trên bến Hoàng Hoa, hay những đường xa Thường thường hai đứa dắt nhau tươi cười Mắt say sưa thắm mộng đời Dù cho mưa gió, bên mái tranh nghèo Dù cho nắng, dù cho sương khói mịt mờ Niềm thương yêu hằng xin mãi mãi không hề phai Nhớ, nhớ, nhớ đêm nào Trên bến tìm sao hai đứa nhìn nhau Không nói một câu Như thầm mơ ước, ước mơ dạt dào Như thầm hẹn nhau mùa sau Tôi vẫn đi giữa hoàng hôn Tôi vẫn đi giữa hoàng hôn Tôi vẫn đi giữa hoàng hôn Lòng thương nhớ...
DƯ ÂM...
Năm 1949, lúc ấy tôi 26 tuổi, trong một chuyến đi công tác về Quỳnh Lưu; qua giới thiệu của người bạn, tôi ghé thăm một gia đình có hai chị em gái. Cô chị lúc ấy 22 tuổi, còn cô em 16 tuổi. Trong một lần ngồi nói chuyện với cô chị, bất ngờ tôi bắt gặp đôi mắt lay láy cuả cô em (đứng tì tay lên vai chị nhìn tôi không chớp). Đôi mắt ấy đã làm cho tôi đờ đẫn cả người, và tôi "vướng" ngay .... Cảm thấy tôi thích cô em mà không thích mình, cô chị đã nổi giận và cấm không cho tôi tới nhà nữa. Trong lần ghé thăm nhà của họ vào đêm cuối cùng - một đêm trăng sáng - tôi được mời ngồi nói chuyện ở ngoài sân, bất chợt tôi thấy cô em xuất hiện với mái tóc xõa ngang vai- cô ấy vừa mới gội đầu nên ra ngồi hong tóc - Vừa hong tóc, cô ấy vừa ôm đàn guitar, hát khe khẽ ở phía xa. Cô ấy hát những bài gì tôi không nghe thấy, nhưng hình ảnh của cô gái đó đã theo tôi đi về đơn vị. Do vậy, tôi đã viế : "Đêm qua mơ dáng em đang ôm đàn dìu muôn tiếng tơ .." là từ hình ảnh ấy. Đó là những cảm xúc thật từ một câu chuyện có thật. Tôi không còn gặp lại họ nữa, sau lần cuối cùng vào cái đêm trăng sáng ấy...
Ðêm qua mơ dáng em đang ôm đàn dìu muôn tiếng tơ Không gian trầm lắng như âu yếm ru ai trong giấc mơ Mái tóc nhẹ rung, trăng vờn làn sống Yêu ai anh nắn cung đàn đầy vơi đôi mắt xa vời Anh yêu tiếng hát êm như lời nguyền đẹp bao ước mơ Anh như lầu vắng em như ánh trăng reo muôn ý thơ Muốn nói cùng em đôi lời trìu mến.... Tim anh băng giá đang nhại ngùng câu năm tháng mong chờ Hẹn em từ muôn kiếp trước Nhớ em mấy thuở bạc đầu Anh đã âu sầu vì đường tơ vương vấn Em đễ cung đàn đưa anh về đâu? Dư âm tiếng hát reo lên trong lòng anh bao nhớ nhung Ðê mê lòng nhớ đêm qua giấc mơ môi em hé rung Anh muốn thành mây nương nhờ làn gió Ðưa anh tới cỏi mơ hồ nào đây muôn kiếp bên nàng.
EM ĐẾN THĂM ANH MỘT CHIỀU MƯA...
...Sau mấy ngày cách biệt, Tô Vũ được tin ba cô cứu thương được chuyển công tác sang huyện cạnh đó. Nơi ba cô trú ngụ để công tác cách nơi cũ không xa bao nhiêu, nhưng lại cách một con sông khá rộng. Việc đi lại, qua sông bằng thuyền rất nguy hiểm vì chẳng may thuyền ra đến giữa sông mà có phi cơ Pháp bay đến là chắc chắn máy bay sẽ bắn xối xả, thuyền sẽ chìm và người khó mà sống sót. Vì thế thuyền chỉ chở vào buổi sáng thật sớm và buổi chiều khi mặt trời đã lặn. Tuy khó khăn vất vả vậy mà thỉnh thoảng ba cô vẫn rủ nhau sang đình hạnh phúc để thăm ba chàng. Mỗi lần sang được gặp nhau như vậy, người đẹp chẳng nói riêng tư với anh Tô Vũ được lời nào. Cho đến một hôm, hai anh kia phải đi công tác, một mình anh Tô Vũ ở lại trụ trì đình. Ngày hôm ấy trời mưa rả rích, gió rít từng hồi, rét ngọt lọt đến xương, đường ruộng đường làng đều trơn như mỡ - cô cứu thương nặng tình với Tô Vũ đột ngột sang thăm anh. Trước sự xuất hiện bất ngờ của người đẹp, một mình dám lao mình trong mưa gió, rét lạnh căm, anh Tô Vũ vô cùng bàng hoàng và xúc động, anh đi lấy vội củi lên chụm rồi đốt để cùng nhau sưởi ấm. Lửa bốc lên làm tan đi khí lạnh, lòng hai người cũng như nổi lửa để ấm lòng nhau sau những ngày xa cách, nhớ mong. Dưới mái đình mênh mang, hai người được tự do bộc lộ, dù biết rằng chữ không viết hết lời, lời không nói hết ý. Nhưng ở đời, ngày buồn thì kéo dài lê thê, còn giờ vui thì chóng tàn. Thời gian đi thật nhanh. Nhìn ra sân thấy cảnh màn đêm sắp buông xuống. Người đẹp phải rứt áo tạm biệt Tô Vũ ra về vì khi trời tối hẳn, không có đò sang sông. Lúc sắp phải chia tay nhau, Tô Vũ cầm tay người yêu bé nhỏ không nói lên được lời nào. Dưới cơn mưa sập xùi, gió vẫn thổi xoáy từng cơn, dù trong người không được khoẻ, anh Tô Vũ vẫn đội mưa đạp gió để đưa người yêu ra tận bến đò. Khi đò đã nhổ sào, từ từ rời bến, Tô Vũ vẫn đứng yên tại chỗ bất chấp mưa gió, mắt nhìn, hồn như bay lơ lửng theo bóng dáng người đẹp sang sông, cho đến khi người đẹp lên bờ rồi khuất hẳn sau màn mưa giăng giăng phủ kín cảnh và người, anh mới lững thững trở về ngôi đền cô quạnh. Về tới nơi, đống lửa vẫn còn thoi thóp cháy, anh chất thêm củi rồi đi nằm nghỉ ngợi triền miên. Anh càng thương người đẹp đã không ngại vất vả khó khăn để sang sưởi ấm lòng nhau. Nghĩ đến chuyến đi ân tình này thật đẹp, khắc sâu vào tim óc anh một dấu ấn vàng son chói lọi khó phai mờ ! Nằm một mình, tự do ôn lại những phút giây thân ái, anh có cảm nghĩ là hồn bướm mơ tiên. Cuốn phim thắm đặm tình nhiệt duyên nồng đang chầm chậm quay trong tưởng nhớ, đột nhiên anh ngồi dậy, lấy giấy bút ra để kịp ghi được nguồn nhạc hứng đang trào từ đáy con tim ra như suối máu. Nhạc điệu êm đềm, buồn day dứt, lời thật trữ tình tha thiết, đúng là sợi tơ lòng thật trung thực nên được mọi người mến chuộng. Đó là nhạc phẩm Em đến thăm anh một chiều mưa. Em đến thăm anh một chiều đông Em đến thăm anh một chiều mưa Mưa dầm dề, đường trơn ướt tiêu điều Em đến thăm anh người em gái Tà áo hương nồng Mắt huyền trìu mến sưởi ấm lòng anh Em đến thăm anh chiều đông giá Em đến thăm anh trời mưa gió Đường xa lạnh lùng Mặt nhìn mặt, cầm tay bâng khuâng không nói một câu Lời nghẹn ngào, hồn anh như say như ngây, vì đâu? Gió đưa cánh chim trời Đó đây cách xa vời Chiều vui mưa ướt cánh Khá thương kiếp bềnh bồng Dẫu khắng khít đôi lòng Chiều nào em xa anh! Có hay lúc em về Gót chân bước reo âm thầm Trên đường một mình ngoài mưa, mưa như mưa trong lòng anh Lòng bồi hồi nhìn theo chân em, chìm trong ngàn xanh Ta ước mơ một chiều thêu nắng Em đến chơi quên niềm cay đắng ... và quên... đường về...
SANG NGANG...
Thời còn phòng trà Anh Vũ, Kim Sơn, Hòa Bình đêm nào cũng có mặt người nghệ sĩ thư sinh này. Đỗ Lễ rất yêu tiếng hát của nữ ca sĩ Lệ Thanh. Một ca sĩ có bàn tay không mấy đẹp với sắc vóc trung bình nhưng giọng ca nồng nàn với những nốt vuốt độc đáo mà hình như cho tới bây giờ chưa có người thay thế. Có người cho rằng tiếng hát ca sĩ Xuân Thu hơi giông giống Lệ Thanh, nhưng chỉ giống ở phần láy âm. Với tâm hồn đa cảm và bén nhạy yêu thương. Đỗ Lễ đã để lòng mình mở rộng đón tiếng hát Lệ Thanh đi sâu vào cõi thầm kín nhất của tình si.Từ tiếng ca chất chứa nỗi lòng tan tác bởi chia ly của người nữ ca sĩ tài hoa này đã dẫn Đỗ Lễ vào bến si mê. Yêu giọng ca, yêu cả con người. Thực sự lúc ấy, tầm vóc của nữ ca sĩ Lệ Thanh nói về tài nghệ và danh phận, thì Đỗ Lễ chỉ là một bóng mờ. Yêu một chiều là nỗi trái ngang thường trực của tình đời. Đỗ Lễ là một lẻ bóng trong yêu đương. Nhưng người nghệ sĩ này vẫn nắm nuối hình bóng ấy làm chất liệu cho kiếp sống đam mê. Lễ sáng tác rất nhiều nhạc khúc theo nhịp điệu Slow, vừa ngợi ca tình yêu vừa than thở cho thân phận một người muốn leo cành bưởi hái hoa. Nhưng cành bưởi thì xa, hoa thì lung linh khêu gợi, mà bày tay người nghệ sĩ thì cách xa quá, cách xa mỏi cả tầm tay với. Đỗ Lễ, như đã trình bày ở trên, luôn có cảm tưởng rằng, mình sẽ không bao giờ được đáp lại tình si mê ấy. Chợt khoảng năm 1963 - 1964 cũng là lúc Lệ Thanh lên xe hoa với một người khác. Trước tin này, Đỗ Lễ thất điên bát đảo trong tâm hồn. Anh thường trực tìm đến men rượu để chia sầu. Nhạc phẩm "Sang Ngang" ra đời trong trạng huống đó với tấm lòng tan nát, ôm mối tình của hai con đường song song không bao giờ gặp nhau. Người nghệ sĩ thường có trí tưởng tượng rất phong phú. Dưới ánh đèn sân khấu, thì nàng nhìn chung vào khoảng không, nhưng Đỗ Lễ vẫn cứ ngỡ rằng Lệ Thanh cũng yêu mình, và bởi một duyên cớ nào đó mà người đẹp mới đành phải sang ngang. Từ đó âm điệu của bản nhạc và lời trong ca khúc được Đỗ Lễ dựng lên như một an ủi: "Thôi nín đi em Lệ đẫm vai rồi Buồn thương nhớ ơi Anh hỡi đôi mình Mộng nay đã tan Tình đã dở dang Em khóc những chiều Anh xót xa nhiều Thương cho tình yêu Nỗi buồn chua cay Khi lòng đổi thay Thôi hết sum vầy ................ Nếu biết rằng Tình là giây oan Nếu biết rằng Hợp rồi sẽ tan Nếu biết rằng Yêu là đau khổ Thà dương gian Đừng có đôi mình ................ Lau mắt đi em Gần hết đêm rôi Buồn thêm nữa sao Mai bước sang ngang Lòng thêm nát tan Tình đã dở dang Thôi khóc làm gì Đã lỡ duyên thề Thương nhau mà chi Nỗi buồn ai hay Khi mình chia tay Xa cách nhau rồi.
TÔI ĐƯA EM SANG SÔNG...
Tôi sinh ra ở Hà Nội nhưng lớn lên tại đất Sài Gòn náo nhiệt. Những ngày tháng thơ ngây tại trường trung học có lẽ không bao giờ phai mờ trong trí nhớ của tôi, bởi ở đó tôi đã để trái tim mình rung động trước cô bạn chung lớp tên Thanh. Tình yêu học trò trong sáng lắm, chỉ cảm nhận qua ánh mắt, nụ cười chứ đâu có dám ngồi gần, dám nắm tay. Những khi tan trường sóng bước bên nhau cũng không biết nói câu gì, chỉ biết …đá cái lon sữa bò khua vang đường phố. Thanh là con một gia đình khá giả, có cây xăng ở ngã bảy Lý Thái Tổ. Còn tôi hồi đó chỉ có chiếc “xế nổ” hiệu Roumie ngày ngày đi học. Mỗi chiều khi thay ba ra trông cây xăng, Thanh lại nhắc tôi ra đổ xăng…chùa. Những ngày tháng đó với tôi thật hạnh phúc, lãng mạn. Nhưng ngày vui ngắn chẳng tày gang, Thanh biến mất khỏi cuộc đời tôi vì một đám cưới ép gả với chàng bác sĩ. Hụt hẫng, chơi vơi, tôi uống chén đắng đầu đời và nếm trải mùi vị của “thất tình”. Tỉnh cơn say vào 2 giờ sáng, tôi ôm guitar và thế là Tôi đưa em sang sông ra đời. Bài hát với giai điệu buồn da diết được coi là tài sản chung cho nhiều chàng trai lâm vào cảnh như tôi thời đó. Tôi đưa em sang sông, chiều xưa mưa rơi âm thầm Để thấm ướt chiếc áo xanh, và đẫm ướt mái tóc em Nếu xưa trời không mưa, đường vắng đâu cần tôi đưa Chẳng lẻ chung một lối về mà nở quay mặt bước đi Tôi đưa em sang sông, bàn tay nâng niu ân cần Sợ bến đất lấm gót chân, sợ bến gió buốt trái tim Nếu tôi đừng đưa em, thì chắc đôi mình không quen Đừng bước chung một lối mòn, có đâu chiều nay tôi buồn Rồi thời gian lặng lẽ trôi, Đời tôi là chiến binh đi khắp phương trời Mà đời em là ước mơ, Đẹp muôn ngàn ý thơ, như ngóng trông chờ Hôm nao em sang ngang, bằng xe hoa thay con thuyền ? Giờ phút cuối đến tiễn em, nhìn xác pháo vướng gót chân Gót chân ngày xa xưa sợ lấm trong bùn khi mưa.. Nàng đã thay một lối về, quên cả người trong gió mưa nhạc sĩ (Nhật Ngân và Y Vũ).
HẠ TRẮNG...
Ở Huế mùa hạ, ve kêu râm ran trên những tàn cây như một giàn hợp xướng và nắng nóng oi bức như địa ngục. Thêm vào đó còn có gió Lào. Vừa tắm xong là người đã ướt đẫm mồ hôi. Bao nhiêu nhiên liệu tích lũy trong cơ thể đều tan ra thành nước. Những đồ vật và áo quần cũng có cảm giác như vừa rút trong lò lửa ra. Những mặt đường gần như bốc khói với nhiệt độ 42 - 43 độ. Có một mùa hạ năm ấy tôi bị một cơn sốt nặng, nhiệt độ trong người và bên ngoài bằng nhau. Tôi nằm sốt mê man trên giường không còn biết gì. Và bỗng có một lúc nào đó tôi cảm thấy hương thơm phủ ngập cả căn phòng và tôi chìm đắm vào một giấc mơ như một cơn mê sảng. Tôi thấy mình lạc vào một rừng hoa trắng thơm ngào ngạt, bay bổng trong không gian đó. Đến lúc tỉnh dậy người ướt đẫm mồ hôi và tôi nhìn thấy bên cạnh giường có một người con gái nào đó đã đến cắm một bó hoa dạ lý hương trắng rất lớn. Chính cái mùi thơm của dạ lý hương đã đưa tôi vào giấc mơ kia. Giấc mơ trong một mùa hạ nóng bức. Trong vùng tôi ở, quanh đó chỉ có một nhà duy nhất trồng dạ lý hương nên tôi biết ngay người mang hoa đến là ai. Sau một tuần lễ tôi hết bệnh. Nghe tin bố người bạn đang hấp hối tôi vội vàng đến thăm. Ông chẳng có bệnh gì ngoài bệnh nhớ thương và buồn rầu. Câu chuyện rất đơn giản. Hai ông bà đã lớn tuổi thường nằm chung trên một sập gụ xưa. Cứ mỗi sáng bà cụ thức dậy sớm và xuống bếp nấu nước sôi để pha trà cho ông cụ uống. Một buổi sáng nọ, cũng theo thường lệ, bà cụ xuống bếp bị gió ngã xuống bất tỉnh và chết. Mấy người con ở gần đó tình cờ phát hiện ra và đưa bà cụ về nhà một người để tẩm liệm. Sau đó chôn cất và giấu ông cụ. Tất nhiên, khi ông cụ thức dậy hỏi con, mẹ các con đi đâu rồi, thì họ trả lời là mẹ sang nhà chúng con để chăm sóc mấy cháu vì chúng bị bệnh. Vài ngày sau vẫn chưa thấy bà về ông mới trầm ngâm hỏi các con có phải mẹ các con đã chết rồi phải không. Lúc ấy mọi người mới khóc òa lên. Từ đó ông nằm trên sập gụ một mình cơm không ăn, trà không uống cho đến lúc kiệt sức và đi theo bà cụ luôn. Câu chuyện này ám ảnh tôi một thời gian. Và sau đó tôi kết hợp giấc mơ hoa trắng mùa hạ với mối tình già keo sơn này như áo xưa dù nhầu cũng xin bạc đầu gọi mãi tên nhau để viết nên bài "Hạ Trắng". Gọi nắng trên vai em gầy đường xa áo bay Nắng qua mắt buồn, lòng hoa bướm say Lối em đi về trời không có mây Đường đi suốt mùa nắng lên thắp đầy Gọi nắng cho cơn mê chiều nhiều hoa trắng bay Cho tay em dài gầy thêm nắng mai Bước chân em về nào anh có hay Gọi em cho nắng chết trên sông dài. Thôi xin ơn đời trong cơn mê này gọi mùa thu tới Tôi đưa em về chân em bước nhẹ trời buồn gió cao Đời xin có nhau dài cho mãi sau nắng không gọi sầu Áo xưa dù nhàu cũng xin bạc đầu gọi mãi tên nhau Gọi nắng cho tóc em cài loài hoa nắng rơi Nắng đưa em về miền cao gió bay Áo em bây giờ mờ xa nẻo mây Gọi tên em mãi suốt cơn mê này.
Đồi thông hai mộ
Đây là 1 chuyện tình buồn giữa người con trai tên Tâm và người cô gái
tên Thảo,chàng là người quê góc Gò Công,con của một vị điền chủ giàu nức
tiếng,vì là con trai một nên Tâm rất được cha me thương yêu và cưng
chiềuKhi lớn lên thì cha mẹ muốn anh lập gia đình sớm để có con nối dõi,nhưng vì chàng chưa muốn lập già đình nên đã lên cha me xin đầu quân vào trường Võ Bị Đà Lạt (nay là học viện Luc Quân Đà Lạt)
Trong thời gian hoc tại đây thì Tâm đã gặp và quen Thảo,nàng là con 1 gia đình công chức,hai người yêu nhau tha thiết,thề non hẹn biển...........
Sau khi ra trường Tâm về quê va xin cha me cho anh được cưới Thảo,nhưng cha me anh phản đối, và bắt anh phải cưới 1 người con gái mà anh không thương yêu chỉ vì "môn đăng hổ đối"
Tâm đã tìm cách hẹn lần hẹn lựa với cha mẹ anh và cuối cùng anh đã chọn cách là xung phong ra tuyến lữa,băng vào trận tuyến............
Trong thời gian này Thảo vẫn chung thủy chờ đơi Tâm trở về,2 người chỉ liên lac với nhau qua nhưng cánh thư từ nơi chiến trường lữa khói gửi về,mặc dù gia đình Thảo khuyên Thảo quên tâm và đi lấy chồng,nhưng Thảo vẫm chờ đợi Tâm
Một ngày kia Thảo nhận được hung tinh là Tâm đã gục ngã nơi chiến trường lửa đạn,tất cả như sụp đổ dưới chân nàng,nàng đau buồn và tìm đến hồ Sương mai(nay là hồ Than Thơ) tự vẫn,trong tay nàng vẫn còn nắm lá thư tình của người yêu,ngày nàng mất là ngày 15-3-1956
trước khi xa lìa cõi đời thì nàng có ước nguyện là được chôn trên đồi thông,nơi mà nàng và Tâm vẫn thường hẹn hò nhau khi chàng còn là sinh viên của trường Võ Bị
Ông trời thật trớ trêu,vì Tâm chưa chết,người ta đã nhầm khi đưa tin báo tử,khi chàng trở về,chàng vô cùng đau buồn khi hay tin người yêu của mình không còn trên cõi đời này,và nàng được chôn trên đồi thông,chàng tìm đến và thương khóc,sau đó quyên sinh để được bên người yêu,trước khi chết chàng đã để lại 1 bức thư tuyệt mệnh với ước nguyện sau cùng là được bên chôn bên cạnh mộ người yêu,và chàng đa được toại nguyện và tạo thành ngôi mộ đôi nổi tiếng đến sau này
Thế nhưng sau ngay giải phóng,cha me tâm đã thuê người lên đà lạt và bóc mộ anh về gò công,vì lúc này cha mẹ anh đã cao tuổi và họ không đủ sức để thăm mộ anh như trước,vì thế nên nơi này chỉ còn lại mộ của Thảo
1 chuyện tình đẹp với kết cuộc đau buồn .
Vết thù trên lưng ngựa hoang
Bài hát được Phạm Duy và Ngọc Chánh viết về Hoàng sayonara.Anh ta là quân sư của Đại Cathay. Sau ngày băng đảng của Đại Cathay bị hốt vào trại Cửu Sừng ở Phú Quốc, băng đảng không còn; Hoàng hàn gắn lại mối tình đầu với người yêu tên Ngọc, sống đời bình thường. Cuộc sống túng thiếu, không có việc làm vì cái quá khứ du đảng, nhất là khi vợ có bầu sắp sanh mà tiền không có. Hoàng tham gia vào một phi vụ cuối cùng là hợp tác với băng Thành Điếc đỗ hàng PX kiếm tiền cho vợ sanh. (PX: chữ viết tắt của Post Exchange, là những cửa hàng bán lẻ do quân đội quản lý, cung cấp nhu yếu phẩm cho quân đội Hoa Kỳ. Hàng miễn các thứ thuế nên giá rẻ, và chợ trời bày bán đầy đường.)
Vụ bốc hàng bị quân cảnh Mỹ phát giác. Khi bắn nhau với QC Mỹ, Hoàng Guitar lãnh một băng đạn M-16 trên lưng, vết thù trên lưng ngựa hoang. Đó là cảm hứng cho Phạm Duy và Ngọc Chánh sáng tác bản nhạc Vết Thù Trên Lưng Ngựa Hoang:
Ngựa hoang về tới bến rồi
Cởi mở lòng ra với cõi đời
Nhưng đời làm ngựa hoang chết gục
Và trên lưng nó, ôi
Còn nguyên những vết thù.
Khi đã bước vào giang hồ, muốn rút chân ra không phải dễ. Hết.
alext (HDVietNam.com)
Nguồn sưu tầm by Ngoan Trương Công
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét