< Những con cá lóc tươi ngon vừa bắt dưới sông lên chỉ cần rửa sạch, không cần sơ chế, cắm xuyên que từ đầu đến đuôi để chuẩn bị nướng. Hình ảnh cá lóc chổng ngược trông rất lạ mắt và thú vị.
Chính vì vậy cái thú thả cần sông hay tát đìa bắt cá về chế biến món ăn đã trở thành một kiểu thưởng thức ẩm thực độc đáo ở miền Tây Nam Bộ. Trong đó, Đồng Tháp, An Giang, Cá Mau… là xứ mà cá lóc nhiều và ngon đặc biệt.
< Sau đó, cá được phủ rơm lên để chuẩn bị nướng.
Cá lóc (miền Bắc gọi là cá quả, cá chuối) nướng trui là một món ăn dân dã đặc trưng cho miền đồng nước miền Tây Nam Bộ Việt Nam, với hương vị độc đáo và cách chế biến rất đơn giản. Món ăn này gắn liền với quá trình khai hóa đất phương Nam của dân tộc Việt.
Mỗi lần tát đìa, đến lúc nước cạn là giai đoạn gay cấn nhất, đám trê, rô cố chúi sâu vào lớp bùn đáy để trốn, còn cá lóc thì cố vượt lên để lách qua bờ thoát thân, nhưng đìa đã cạn, cứ lên tới nửa thành đìa thì rớt xuống. Người dưới đìa cứ thấy con lóc nào phóng lên là lập tức chộp con đó.
< Muốn cá ngon thì phải chọn loại rơm thật vàng, thật sạch.
Tại bàn tiệc dã chiến, những tàu lá chuối xanh mượt đã được xếp dài ở giữa. Bên trên xấp lá chuối là những xấp bánh tráng dẻo trắng phau, đọt xoài, lá lụa, quế vị, húng lủi v.v. tươi roi rói, xen lẫn là những lát chuối chát, khế chua, đôi khi còn có thêm những trái điều chín vàng ươm v.v.. Cạnh đó là tô mắm me cay hoặc muối ớt để chuẩn bị cho một món ăn dân dã nhưng cực kỳ ngon và được người dân Nam Bộ rất mê, món Cá lóc nướng trui.
< Ngọn lửa rơm cháy đượm sẽ giúp cá chín đều...
Cá lóc rửa sạch, lựa con chừng 1 kg là vừa, thịt cá vừa ngọt, thơm, lại dễ nướng. Xiên một thanh trúc hoặc thanh tre tươi vót sẵn từ miệng cá cho đến đuôi. Nhiều khi nguời ta còn dùng dao chặt bỏ phần đuôi cá vì như vậy thì khi nướng chín phần bụng và xương cá sẽ không bị ứ máu, thịt cá sẽ không tanh khi để nguội. Sau đó cắm những thanh tre đã xiên cá xuống đất và phủ rơm khô lên, người nướng cá “có nghề” phải lượng sao cho rơm vừa đủ để khi rơm lửa tàn thì cá cũng vừa chín. Rơm dư thì cá khét hoặc chín quá, mất ngọt; rơm thiếu thì cá lại nhão, tanh.
< Lớp tro nóng làm thịt cá thêm thơm và ngọt.
Nhìn đụm rơm cháy đỏ, tiếng mỡ nổ lốp bốp, thật sướng tai, sướng mũi vì cá lóc nướng trui có mùi thơm rất đặc trưng, không giống với loại cá nào khác. Mùi thơm toả ra từ lớp vẩy, thớ thịt và có cả mùi hơi khét của da. Cá chín đặt nguyên con lên tàu lá chuối, cạo bớt lớp vảy cá bị cháy, xẻ lằn dài theo bụng cá để lộ ra thịt cá trắng và thơm, banh ra làm đôi là ăn được.
< Sau khi tàn rơm được khều ra, những con cá lóc nướng vàng ươm, vây cá bị cháy sạch, tỏa mùi thơm khó cưỡng.
Lấy miếng cá còn bốc khói cuốn với bánh tráng, rau sống, chấm vào nước mắm hoặc mắm nêm, bạn sẽ thấy thật sướng miệng khi mùi thơm, vị ngọt béo của cá hoà lẫn với các hương vị của khế chua, chuối chát, ăn hoài không ngấy. Hãy nhai thật chậm rãi để nghe bao nhiêu hương vị của rau cỏ, đồng ruộng như ngấm vào tận ruột gan, ăn một lần nhớ mãi.
< Đĩa cá lóc nướng trui trông thật hấp dẫn và ngon lành!
Đặc điểm của món cá lóc nướng trui dân dã là cá không cần sơ chế, nghĩa là không đánh vảy, không cạo nhớt, không mổ bụng, không tẩm ướp gia vị. Có khi cá nướng xong chỉ cần gỡ thịt chấm muối ớt, mà phải là loại muối hột cũng cảm nhận được hết mùi vị thơm ngon vùa cay vừa mặn vừa ngọt vừa thơm của món cá lóc nướng đặc sản của dân Nam Bộ.
Du lịch, GO! - Tổng hợp từ Datviet, Dongthap
Đến quán Âm Phủ ăn cơm trần gian
1. Quán Âm Phủ ở Huế do một doanh nhân thuộc hàng vọng tộc – ông Tống Phước Kỳ - khai sinh những năm 1914 – 1918 cùng với sân vận động (SVĐ) Bảo Long, tên của con vua Bảo Đại. Ban đầu, quán có tên Đất Mới, do nằm trong vùng đồng hoang An Cựu. Sau, SVĐ đổi tên Tự Do, quán cũng đổi tên thành Âm Phủ. Tên Âm Phủ, do quán mở vào đêm khuya, leo lắt bóng đèn dầu, chỉ độc món cơm chiên.
Nói cơm chiên, nhưng thực chất là cơm trộn với các món ăn thừa của các hiệu cơm Tây gần Morin thải ra, đem chiên xào lại...
Gọi cơm xà bần chiên cũng được vì chuyên bán cho giới bình dân ăn khuya như phu kéo xe, gái làng chơi quanh khu đồn Tây đóng hoặc những người đi xem hát bội rạp Bà Tuần hay chơi cine rạp Tân Tân về khuya đói bụng. Lần hồi quán nổi tiếng, thu hút thêm khách vãng lai.
Thời Huế khó khăn, cơm Âm Phủ trở thành quán cơm xã hội bán giá bình dân. Còn là điểm đến của nhiều văn nghệ sỹ nên quán cơm Âm phủ đã đi vào văn học, bắt đầu là văn hóa dân gian, với bài vè Thất thủ kinh đô do cụ Mới, bị mù, dùng hai nang tre kẹp vào nhau để đệm âm thanh, nói vè trên các ngả đường:
Kể từ ngày thất thủ kinh đô,
Tây qua giăng dây thép, họa địa đồ nước Nam
Lên dinh ở tới Tòa Khâm
Chén cơm Âm phủ áo dầm mồ hôi
Chén cơm quán Âm phủ chan mồ hôi, nước mắt những kẻ cơ hàn, những lãng tử không nhà nên cũng trở thành nổi tiếng như những “thương hiệu” khác: chè bắp Cồn Hến, bánh bèo Tây Thượng, bánh canh Nam Phổ, cơm sen Tịnh Tâm, xôi gà Nguyệt Biều, bánh ướt Kim Long... mà những nhà thơ gốc Huế như Trụ Vũ, Hỷ Khương... từng làm thơ ca ngợi. Nhà thơ Hữu Thụ, trong một bài vè có đoạn: Muốn ăn cơm dĩa trữ tình, có quán Âm phủ ma rình phía sau.
Âm phủ nhưng bán cơm trần gian. Vì nay, trên cái nền cũ đã là Nhà hàng Âm phủ - số 35, Nguyễn Thái Học (Huế) – mở cửa từ sáng đến khuya và còn xuất hiện đậm nét trên các guide book để chào tour. Vẫn còn lưu giữ món cơm chiên “cổ truyền” thời đói khổ, nhưng đã xuất hiện rất nhiều món tân kỳ như mép môi bò chấm với mắm sò hay món nướng kiểu Hibachi...
Hiện tại, đây là điểm đến quen thuộc với các đoàn khách đến Huế.
2. Quán Âm Phủ của TPHCM ra đời cùng thời với ngôi chùa Vĩnh Nghiêm nằm trên đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa. Gần chùa, nơi con dốc xuống bến tắm ngựa, có một quán bán các món chay trong nhà.
Quán không bán cơm, chỉ bán mì, cháo, cari, cuốn và sữa đậu nành nguyên chất. Quán do ông bà cụ thân sinh của cô Bé mở, nên khách quen gọi là quán Âm Phủ cô Bé. Tên Âm Phủ chính thức xuất hiện từ hôm cô Bé thay chỗ bà cụ quản lí quán, với một nguyên tắc “bất di bất dịch”: tất cả các nồi soong thức ăn dù đã sẵn sàng, lớp lớp khách đã ngồi chờ, nhưng cô cứ đủng đỉnh chờ đúng 9 giờ cô mới chịu múc thức ăn dù khách có năn nỉ mấy cũng mặc.
Khách đến theo từng đoàn, theo giờ lao động, kéo dài từ tối đến 2 giờ sáng mới chấm dứt. Tuy là món chay, nhưng hấp dẫn đậm đà hơn cả món mặn, giá lại bình dân: mỗi tô bình quân 8.000 đồng, nóng sốt, ngon bổ và rất sạch. Chỉ ngặt một điều, khách Tây “cao giò cao cẳng” vào quán phải ngồi ghế thấp nên rất khó xoay trở...
Khác với quán Âm Phủ ở Huế, quán Âm Phủ giữa Sài Gòn vẫn chưa chịu... bán cơm trần gian.
Du lịch, GO! - Theo amthuc365 và nhiều nguồn khác
Nguồn sưu tầm by Ngoan Trương Công
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét