Ngoài trời những giọt mưa vẫn tiếp tục rơi đều trên khung cửa kính. Buổi chiều về nhà, bạn bè dưới Cali gọi lên báo tin. Bỏ điện thoại xuống, tôi ra vườn sau nhà. Nhìn những cánh hoa anh đào đang rụng bay theo gió, chợt thấy lạnh, và nỗi buồn ập đến khiến tôi choáng váng. Buổi tối anh Nguyễn Mạnh Trinh gọi lên nhờ tôi đóng góp một bài để đăng trong tuyển tập anh dự định in trong những ngày sắp tới. Tôi hứa sẽ viết một chút về những bản nhạc đã phổ từ thơ ông.
Tôi không rõ nhà thơ Nguyên Sa từ
Pháp trở về Việt Nam từ năm nào, chỉ biết cùng với nhà thơ Cung Trầm Tưởng, ông
đã đem Paris về cho bọn trẻ chúng tôi. Một Paris với hè phố Saint Michel, với
sông Seine, tháp Eiffel, những cặp tình nhân, giáo đường sương mù… Cùng một lúc
ông đã mang nắng Sàigòn, lụa Hà Ðông và đâu đó bóng dáng Hà Nội vào thi ca Việt
Nam của chúng ta một cách thân thiết nhẹ nhàng. Nhiều người hỏi tôi có quen biết
hay có họ hàng với nhà thơ? Như tôi đã nói, chúng tôi không có liên hệ gì ngoài
sự cảm thông của hai con người cùng yêu nghệ thuật. Nói rõ hơn, tôi chỉ là một
trong hàng triệu người yêu quí thơ ông, một người may mắn có thể gửi lời biết ơn
giòng thơ tuyệt vời của ông qua những nốt nhạc giản dị, chân tình.
Cuối năm 1969, khi một số tình khúc
của tôi đã được phổ biến rộng rãi trên các đài phát thanh, cũng như trong những
đêm sinh hoạt văn nghệ được tổ chức tại nhiều trung tâm văn hoá, hay các giảng
đường đại học. Tôi đến với thơ Nguyên Sa, không từ một chọn lựa, mà vì tôi đã
nhìn thấy mình trong thơ của ông, đã nghe những rung động thầm kín nhất của tuổi
trẻ mình được ông tạo lên bằng những lời thơ ngọt ngào tình tứ, tươi mát. Cũng
như bao nhiêu anh em thanh niên sinh viên học sinh của thập niên 60, tôi yêu và
thuộc không ít thơ của ông. Nói đến Áo Lụa Hà Ðông, có lẽ chúng ta mấy ai không
biết:
Nắng Sàigòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Ðông.
Cá nhân tôi khi đọc bài thơ đã chú
ý ngay 4 câu:
Em chợt đến, chợt đi anh vẫn biết
Trời chợt mưa, chợt nắng chẳng vì đâu
Nhưng sao đi mà không bảo gì nhau
Ðể anh gọi, tiếng thơ buồn vọng lại.
Lời thơ man mác buồn, đã vỗ về,
chia xẻ tâm tư tôi ngày tháng đó. Lang thang Sàigòn một ngày nắng nhẹ, giòng
nhạc lan man trong đầu óc: "Rê Ðô Rê, Sol Sib Sib Rê Rê, Sol Sol La, Sol Sib Rê
Rê La…", tôi đã hoàn tất phần điệp khúc được viết theo cung Rê thứ để thích hợp
với hồn thơ. Khi phổ hai phần đầu, và cuối, tôi đã gặp khó khăn với hai câu:
Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng
và
Giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng
vì vần trắc của chữ "trắng" đã
không thích hợp với giòng nhạc chuyển tiếp cần âm bằng. Sau hơn một tuần loay
hoay tìm kiếm, cuối cùng tôi đã phải dùng một phương pháp phổ thơ cũ: nhắc lại
lời thơ ở câu trên để chuyển ý nhạc trở về phần hai, cũng như đoạn cuối của bản
nhạc:
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng.
Anh vẫn nhớ em ngồi đây, tóc ngắn
Ðể tạo ấn tượng nuối tiếc cho người
nghe, khi kết thúc bản nhạc, tôi đã thêm câu:
Anh vẫn yêu màu áo ấy, em ơi
với giòng nhạc đi lên, chuyển từ
Sol thứ qua Sib, La, và chấm dứt bằng Rê trưởng.
Cuối năm 1970, trong một đêm nhạc
tình ca tại trường đại học Khoa Học, tôi đã giới thiệu bài hát tới các bạn trẻ
của tôi. Sau đó bản nhạc đã được phổ biến thường xuyên qua các chương trình nhạc
do tôi và nhạc sĩ Trường Sa thực hiện trên đài phát thanh Quân Ðội, cũng như
trong các đêm nhạc do bạn bè chúng tôi tổ chức tại Sàigòn. Ngoài ra trong năm
1970, tôi cũng đã viết "Tình Khúc Tháng Sáu" phổ theo ý thơ bài Tháng Sáu Trời
Mưa của Nguyên Sa. Mãi đến năm 1984 tôi mới phổ bài "Tháng Sáu Trời Mưa" của
ông.
Những năm 60, 70, bọn trẻ chúng tôi
dù trưởng thành trong khói lửa chiến tranh, có ai không mơ một ngày được đặt
chân đến Paris, được cùng người yêu dạo chơi phố phường Paris, hay lang thang
bên bờ sông Seine nhớ đến một cuộc tình… Paris như một lời kêu gọi, một nơi chốn
tìm về cõi tình yêu. Từ những mộng ước đó, bản nhạc thứ hai tôi phổ từ thơ
Nguyên Sa đã thành hình. Có những bài thơ khi muốn phổ nhạc, người nhạc sĩ phải
tìm điệu nhạc để chuyên chở ý thơ, hoặc phải thay đổi lời thơ để nhập vào ý
nhạc… Riêng "Paris Có Gì Lạ Không Em" khi đọc lên tôi đã nghe phảng phất tiếng
phong cầm rộn rã của nhịp 3 luân vũ. Trên phím dương cầm, giòng nhạc dồn dập,
chạy dài trên 10 đầu ngón tay, tôi đã hoàn tất phổ bài thơ trong một ngày đầu
xuân năm 1971.
Cung Ðô trưởng mở đầu nhịp nhàng:
Paris có gì lạ không em
Mai anh về, em có còn ngoan...
tôi thích nhất câu:
Là áo sương mù hay áo em
từ cung Ðô trưởng đổi chuyển qua La
thứ để vào phần điệp khúc:
Anh sẽ cầm lấy đôi bàn tay
Tóc em anh sẽ gọi là mây...
Khi Hoàng Phúc bạn tôi hát bài này
lần đầu tiên, đã nói "bài này phải để chị Thái Thanh hát mới được". Ðúng như lời
Phúc nói, sau này chị Thái Thanh đã thu bài này. Ðể thêm một chút Paris, chị đã
hát:
La la la la la la
La la la la la la
La la la la la la
khi kết thúc bản nhạc.
Sau Áo Lụa Hà Ðông và Paris Có Gì
Lạ Không Em, tôi đã phổ tiếp Tuổi 13. Cũng như "Nắng Sàigòn anh đi mà chợt
mát. Bởi vì em mặc áo lụa Hà Ðông", "Áo nàng vàng tôi về yêu hoa cúc, Áo
nàng xanh tôi mến lá sân trường" là 2 câu thơ được bọn trẻ chúng tôi thuộc
nằm lòng ngày đó. Tôi yêu cái ý thơ hồn nhiên, lời thơ trong sáng. Ðọc bài thơ
thấy hồn lâng lâng, như đang nhớ nhung, hẹn hò, đang đợi chờ, mơ ước. Ý nhạc đến
thật nhanh:
Trời hôm nay mưa nhiều hay rất nắng
Mưa tôi trả về bong bóng vỡ đầy tay...
Tôi đã vào đề với những nốt nhạc
cao của cung Ðô trưởng để diễn tả cái thắc mắc ngày mưa ngày nắng của mình. Khi
chuyển qua điệp khúc tôi nhắc lại câu "Tôi phải van lơn ngoan nhé đừng ngờ…"
2 lần như một lời trấn an người tình nhỏ và kết thúc tôi nhắc lại câu "Nên đến
trăm lần, nhất định mình chưa yêu" như một câu hỏi cho chính lòng mình. Tôi vẫn
nghĩ bản nhạc với những niêm luật gò bó đã không thể nói lên hết được ý thơ của
tác giả. Chỉ hy vọng bản nhạc đã không làm giảm giá trị của bài thơ.
Ðầu năm 1974, khi quyết định cùng
một nhóm bạn thực hiện cuốn băng Tình ca Ngô Thụy Miên, tôi đã đến gặp nhà thơ
để xin phép thu 3 bản nhạc. Lần đầu tiên nói chuyện để lại ít nhiều kỷ niệm. Nhà
thơ rất giản dị, dáng dấp xuề xoà. Ông rất vui khi biết tôi phổ thơ ông, và hỏi
tôi sẽ nhờ ai hát ? Tôi nói nhạc sĩ Văn Phụng viết hoà âm, ca sĩ Duy Trác hát Áo
Lụa Hà Ðông, Thái Thanh hát 2 bài Paris Có Gì Lạ Không Em, Tuổi 13. Và từ đó, Áo
Lụa Hà Ðông, Paris Có Gì Lạ Không Em , Tuổi 13, đã trở thành một phần đời nhạc
Ngô Thụy Miên.
Năm 1980 khi tôi đặt chân đến Cali,
người đầu tiên tôi liên lạc để hỏi thăm tin tức sinh hoạt văn nghệ của cộng đồng
chúng ta ở hải ngoại là nhà thơ Nguyên Sa. Ông có cho tôi biết về sự ưu ái của
thính giả dành cho bài Áo Lụa Hà Ðông, cũng như cuốn băng Tình ca Ngô Thụy Miên.
Năm sau đó tôi đã rời Cali để lên miền Tây Bắc. Ông vẫn thỉnh thoảng liên lạc
bằng điện thoại với tôi, và gửi lên tôi những bài thơ mới viết về sau.
Trong những tháng ngày đầu ở Cali,
mặc dù bận rộn với đời sống mới, tôi vẫn tiếp tục sáng tác. Cùng với Em Còn Nhớ
Mùa Xuân, Bản Tình Ca Cho Em, Dốc Mơ… Tôi đã phổ bài thơ "Paris" của Nguyên Sa:
Mai tôi đi chắc Paris sẽ buồn, Paris sẽ nhìn theo... với tôi Paris lúc đó chính
là Sàigòn, Sàigòn của những nỗi nhớ muộn màng, Sàigòn của những mất mát khôn
nguôi. Ý nhạc không tươi trẻ như Tuổi 13, hồn nhạc không dịu dàng như Áo Lụa Hà
Ðông. Tôi đã mượn thơ ông để gửi gấm tâm sự mình. Tôi biết khi tôi đi Sàigòn đã
buồn, và Sàigòn đã nhìn theo.
Năm 1981, sau khi về cư ngụ tại
thành phố Seattle, trong nỗi nhớ những con đường, những hàng quán thân quen của
Sàigòn ngày nào, cùng với ám ảnh thương yêu về Áo Lụa Hà Ðông, về Paris của một
thời, tôi đã viết bài Nắng Paris Nắng Sàigòn:
Tôi đi giữa trời Paris mà nhớ
thương Sàigòn
Nắng Sàigòn hôm nao dìu bước chân em
Qua phố phường vào quán chợ thân quen...
Nắng Sàigòn hôm nao dìu bước chân em
Qua phố phường vào quán chợ thân quen...
Tôi nghĩ đây là một kết hợp đẹp của
một phần đời nhạc Ngô Thụy Miên và thơ Nguyên Sa.
Năm 1986, nhà thơ gọi lên tôi và
nói sẽ thực hiện một cuốn cassette gồm một số bản nhạc phổ thơ mới của ông. Tôi
gửi xuống ông "Tháng Giêng Và Anh", đã được Hải Lý hát, và sau đó là Vũ Khanh, Ý
Lan, Khánh Hà… Ông rất thích bài hát này. Tiếc là bản nhạc đã không được phổ
biến rộng rãi như ý ông muốn.
Ðầu năm 1997, tôi về Cali ra mắt
cuốn CD Riêng Một Góc Trời, trong đó có bài "Cần Thiết" phổ từ thơ ông do Thanh
Hà hát. Gần đến phút cuối chương trình, tôi được biết có ông đến tham dự. Rất
tiếc tôi đã không thể đến gặp ông để chào hỏi, cũng như ngỏ một lời cảm ơn.
Năm ngoái khi anh chị Duy Trác qua
Seattle thăm bạn bè, chúng tôi đã có dịp gặp lại nhau. Anh em hàn huyên tâm sự,
và anh tặng tôi một cuốn cassette có chương trình phát thanh giới thiệu chủû đề
Thơ Nhạc Nguyên Sa/Ngô Thụy Miên do anh thực hiện tại Houston Texas. Trong
chương trình này anh Duy Trác có nhắc lại:
Thi sĩ Nguyên Sa đã có lần nói rằng
bài thơ Áo Lụa Hà Ðông của ông có một số mệnh rất đặc biệt. Khi bài thơ được
nhạc sĩ Ngô Thụy Miên phổ thành ca khúc, và ca sĩ Duy Trác trình bày, thì từ đó
cái tên Áo Lụa Hà Ðông đã gắn chặt tên tuổi của 3 người, thi sĩ, nhạc sĩ và ca
sĩ. Nó đã trở thành một định mệnh. Mặc dù đây không phải là bài thơ hay nhất của
Nguyên Sa, cũng như không phải là ca khúc tuyệt tác nhất của Ngô Thụy Miên, cũng
như không phải là bài hát mà ca sĩ Duy Trác trình bày thành công nhất.
Một lần nào đó tôi đã nói "trong
nhạc Ngô Thụy Miên, thơ Nguyên Sa có một chỗ đứng rất đặc biệt…" Vâng, trong
nhạc tôi ý thơ ông bàng bạc khắp nơi, đâu đó thấp thoáng một chút nắng Sàigòn,
một chút lụa Hà Ðông, đâu đó bâng khuâng một chút trời Paris và người yêu rất
nhớ… Ðịnh mệnh đã cho tôi được đọc thơ Nguyên Sa, được nghe tiếng hát Duy Trác,
được thưởng thức hoà âm của Văn Phụng, để ngày hôm nay, và mãi mãi sau này, dù
các anh còn ở đây, hay đã đi rồi, tôi vẫn xin được gửi lời cám ơn chân thành
nhất của một người viết nhạc tình ca đến các anh. Xin lần cuối gửi lời cầu chúc
nhà thơ một chuyến đi xa về nơi an lành, vĩnh cửu.
Nguồn sưu tầm by Ngoan Trương Công
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét