Nếu Kinh Bắc có món phở, Kinh kỳ có bún bò Huế, thì bún cá miền Tây dù “tuổi đời” còn non trẻ như chính vùng đất khai sinh ra nó, nhưng cũng không kém cạnh các bậc đàn anh đàn chị về hương vị đặc trưng không lẫn vào đâu được. Nét độc đáo của bún cá nằm ở sự “biến hóa” phong phú theo dòng chảy con sông Cửu Long: đến mỗi vùng miền, bún cá lại chuyển đổi hương vị, khoác lên mình một cái tên mới, đậm chất địa phương: bún kèn/bún cá Châu Đốc, bún nước lèo Trà Vinh, bún mắm Sóc Trăng…
Nguyên liệu chính của bún cá là cá lóc, cá rô đồng hoặc mắm cá, nhưng hương vị thật sự làm nên nét riêng của từng món bún cá lại là từ củ ngải bún – một loại gia vị đặc trưng chỉ có ở miền Tây.
Củ ngải bún còn gọi là ngải hẹ, tên khoa học là auttum crosscus, có nguồn gốc từ Campuchia. Ngải bún mọc hoang trong những khu rừng ở Seam Reap, Battambang... Người Việt ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ sang Campuchia lập nghiệp đã mang củ ngải bún về trồng ở Việt Nam cách đây khỏang 45 năm. Ngải bún dùng để nấu bún nước lèo (num-chóc) và món kèn dừa (xăm-lo bờ-hơ), hai món ăn không thể thiếu trong bữa cơm của những gia đình người Việt từng cư ngụ tại Campuchia, hiện đang sống rải rác khắp các tỉnh Nam Bộ.
Ngải bún được trồng bằng củ vào đầu mùa mưa ở miền Nam, khoảng đầu tháng 5 dương lịch. Đất trồng phải tơi xốp, không úng nước, thường là đất đen pha sỏi nhỏ. Lá ngải bún là lá đơn dài, hình lưỡi mác, giống lá nghệ, nhưng nhỏ hơn. Cây ngải bún không có hoa, phát triển nhiều ở phần củ. Trồng khoảng 5 - 6 tháng, đến cuối mùa mưa, sau khi phần lá lụi tàn, là lúc người ta thu hoạch củ ngải bún. Ngải bún có hương thơm dìu dịu, vị ngai ngái, gợi nhớ đến hương vị của đất đai, núi rừng hoang dã.
Điều thật sự khác biệt của món bún cá chính là hương vị thanh đạm (do nước dùng nấu từ cá), món ăn không chứa nhiều dầu mỡ và chất béo như các loại bún mì nấu từ thịt. Bên cạnh đó, rau xanh dùng kèm lại rất phong phú và đa dạng. Chỉ bấy nhiêu là đã đủ “lập danh” cho bún cá miền Tây!
Du lịch, GO! - Theo ConganTP
Cốm ngò Cần Giuộc: vết tích tiệm nước người Hoa
Tên là tiệm nước nhưng thường bán cả đồ ăn sáng điểm tâm, trưa bánh ngọt. Nói theo Nguyễn Văn Trấn trong Chợ Đệm quê tôi thì tiệm nước chính là trung tâm văn hoá, trung tâm thông tin của một vùng. Nói theo Bình Nguyên Lộc trong Hồn ma cũ, nhiều người đến tiệm nước không chỉ để thưởng thức cà phê, bánh bao, hủ tiếu mà còn tắm mình trong không gian, không khí quen thuộc ấm áp.
Nếu mỗi ngày tới tiệm nước vào cùng giờ khắc, khách sẽ gặp lại đúng những gương mặt đó, ngồi đúng ở những vị trí quen thuộc đó. Người phổ ky chỉ thấy mặt khách là gọi hàng ngay bằng thứ tiếng Quảng nói lóng: “Hai hoành thánh mì thoàn dách, lượng co sủi cảo tún lục” (hai hoành thánh mì bàn giữa số một, bánh sủi cảo bàn số sáu phía đông).
Buổi sáng, dù khách chỉ uống nước, người phổ ky vẫn bày sẵn trên bàn hai cái bánh bao, khách có dùng thì tính tiền, không dùng thì thôi. Buổi trưa, khách hàng thuộc giới lao động thường tới tiệm ăn miếng cốm ngò, bánh lột da (bánh pía) uống nước trà (nhẩm xà) miễn phí.
Lai lịch của cốm ngò từ đâu ra thì còn khá mờ mịt. Chữ ngò
trong cốm chính là do cách trang trí, để vài lá ngò tươi xanh nổi bật
lên nền cốm vàng sậm, vừa tạo màu sắc vừa có thêm hương vị cho cốm.
Anh
Huỳnh Hy, chủ cơ sở cốm ngò Huỳnh Hy khá nổi tiếng ở Cần Giuộc, Long An
cho biết ông nội anh là người Hoa sang Việt Nam từ thế kỷ 19, kết hôn
với bà nội anh và đưa vợ về Quảng Đông. Cha và các cô chú của anh đều
sinh ra ở Quảng Đông và đến đầu thế kỷ 20 thì trở về quê ngoại Cần Giuộc
cùng hợp tác mở tiệm nước trên mé sông Cần Giuộc. Cha anh làm cốm ngò,
chú anh nấu cháo Quảng, cô anh bán nước.
Tiệm nước sung túc một thời gian dài, do thời cuộc thay đổi, thị hiếu con người thay đổi theo thế hệ, anh kế thừa nghề làm cốm của cha và phát triển thành doanh nghiệp sản xuất cốm, thành thương hiệu tên tuổi của cả một vùng. Không còn là món ăn tiệm nước nhưng cốm ngò lại phát triển phổ thông hơn, là món ăn gia đình, tặng phẩm cúng giỗ lễ tiệc, quà tặng đặc sản cho du khách gần xa.
Nguyên liệu làm cốm ngò rất đơn giản: chỉ là bột mì, đường,
trứng, nhưng từng cơ sở có cách chế biến tạo ra sắc thái hương vị riêng.
Với Huỳnh Hy, phương châm của anh là tạo ra khẩu vị ngọt, béo mà không
ngán, ăn một lần thấy nhớ muốn ăn thêm. Để cốm có độ xốp, độ béo lại
phảng phất hương thơm yêu cầu việc pha chế phải khéo léo. Ngay lúc sản
xuất cũng phải chọn thời điểm nhiệt độ ngoài trời không quá cao, vì thế
từ 3 giờ sáng mọi người phải tiến hành các công đoạn của mình từ khâu
pha chế đến đóng gói bao bì. Cốm ngò Huỳnh Hy sản xuất tại vùng nguyên
liệu đặc biệt là vịt nuôi bằng còng nên lòng trứng đỏ tươi và có mùi
thơm rất đặc trưng.
Điểm tâm buổi sáng, lót dạ lúc giữa trưa, hay nhâm nhi nhẩm
xà buổi tối với dăm người bạn, hương vị cốm ngò không chỉ làm câu chuyện
ngọt ngào mà còn gợi nhớ ký ức không gian của văn minh tiệm nước ngày
xưa.
Du lịch, GO! - Tổng hợp từ DanViet, SGTT
Nguồn sưu tầm by Ngoan Trương Công
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét