Theo dấu người xưa
Tọa lạc tại số 75 đường Phương Thành, TX.Hà Tiên (Kiên Giang), Sắc tứ Tam Bảo là một trong những ngôi chùa xưa nhất ở Hà Tiên. Đây là ngôi chùa do Tổng binh Mạc Cửu xây dựng để thân mẫu của ông là Thái Thái phu nhân tu hành trong những năm cuối đời.
Theo sách Lược sử những ngôi chùa ở Kiên Giang thì chùa Tam Bảo được xây dựng vào năm 1730. Thời Tao đàn Chiêu Anh các, tiếng chuông chùa là nguồn cảm hứng để Mạc Thiên Tích sáng tác bài thơ Tiêu tự thần chung. Nhưng lịch sử ngôi chùa qua nhiều thăng trầm, biến đổi nên cũng còn những điều chưa rõ.Lịch sử chùa Sắc tứ Tam Bảo
Căn cứ bài thơ Tiêu tự thần chung của Mạc Thiên Tích, ni trưởng Như Hải, trụ trì Sắc tứ Tam Bảo, giải thích rằng “Tiêu tự” là nơi tu hành tĩnh mịch, “thần chung” là tiếng chuông thỉnh buổi sáng và suy luận ngôi chùa xưa ở sát công thự (của Tổng binh Mạc Cửu). Cách giải thích này khá gần với thông tin mà nhà nghiên cứu Trương Minh Đạt cung cấp cho chúng tôi: “Thời Mạc Cửu làm Tổng binh trấn Hà Tiên, nơi ngôi chùa tọa lạc hiện nay vốn là Trấn thượng/dinh cơ của Mạc Cửu, phía sau hậu liêu ông có cất một gian phòng cho mẫu thân ông tu hành. Vào năm 1718, Hà Tiên bị quân Xiêm tấn công. Bấy giờ bà Mạc Cửu chạy nạn qua Lủng Kỳ và hạ sinh Mạc Thiên Tích”.
Đến giai đoạn Mạc Thiên Tích kế vị cha, ngôi chùa cổ có lẽ vẫn nằm trong khu vực Trấn thượng. Năm 1771, vua Xiêm PhyaTak Sin (Trịnh Tân) lại đem quân sang tấn công Hà Tiên, đánh bại Mạc Thiên Tích. Lần này ông chạy sang Cà Mau trong khi Hà Tiên gần như bị san bằng. Trấn thượng vì vậy cũng không còn tồn tại và ngôi chùa cũng trở thành phế tích, mặc dù người Xiêm sùng đạo Phật và không có hành vi phá chùa.
Chùa Sắc tứ Tam Bảo ở Hà Tiên - Ảnh: H.P |
Từ đó đến nay, chùa đã được trùng tu nhiều lần. Song điều đáng quý là phế tích bức tường thành được xem là dấu vết của Trấn thành thời Tổng binh Mạc Cửu hiện vẫn còn gìn giữ.
Chiếc đại hồng chung
Hiện nay, trong khuôn viên chùa Sắc tứ Tam Bảo còn hai tháp lớn: một là của hòa thượng Ấn Trừng, hai là của hòa thượng Phước Ân. Hòa thượng Phật Hội - Ấn Trừng đời thứ 35 Lâm tế chánh tông (theo dòng kệ Đạo bổn nguyên thành phật tổ tiên) là vị trụ trì đầu tiên của ngôi chùa xưa.
Tương truyền, đêm nọ mẹ của quan Tổng binh Mạc Cửu nằm mộng thấy con rồng vàng ngậm cành hoa sen quấn trên cột buồm chiếc ghe thương hồ từ hướng bắc đến. Hôm sau bà thuật lại cho Mạc Cửu nghe. Ít lâu sau có một vị tu sĩ tướng mạo bất phàm đến xin diện kiến. Khi hỏi ra mới biết ông là một danh tướng của nhà Minh, vì không phục nhà Thanh nên rời bỏ quê hương sang Nam triều rồi chán cảnh thế nhân xuất gia theo Phật, được pháp hiệu là Ấn Trừng. Nghe xong, ngài tổng binh thấy ứng với điềm báo mộng của mẹ bèn lưu ông lại trấn phủ truyền giáo quy giới cho mẹ tu hành. Một số bài viết giới thiệu về Sắc tứ Tam Bảo tự còn ghi rằng, tu hành được một thời gian, Thái bà bà (mẫu thân Mạc Cửu) tọa hóa trước Phật đài. Ngài Mạc Cửu cho đúc kim thân của mẹ để thờ, đúc một đại hồng chung để cúng và nghe tiếng chuông mà tưởng niệm mẹ hiền.
Tuy nhiên, theo ni trưởng Như Hải thì Thái bà bà vãng sanh ngay lúc làm lễ xuất gia tại chánh điện và hiện trong chùa cũng không có (tượng) kim thân của bà. Chỉ có bài vị thờ mà các nhà nghiên cứu cho rằng bút tích của Mạc Thiên Tích và ngôi mộ của bà ở phía sau chùa. Cách đây mấy năm, hậu duệ họ Mạc ở Cà Mau đã qua đây trùng tu xây tháp, còn trước đó thì chỉ là ngôi mộ bình thường. Trong chùa nay chỉ còn lưu giữ bức kim thân A Di đà do Tổng binh Mạc Cửu mang từ Trung Quốc sang. Nhưng bức tượng hiện đã sơn phết nhiều lớp, khó xác định. Riêng chiếc đại hồng chung được người đời truyền tụng là chiếc chuông mà Tổng trấn Mạc Thiên Tích cảm tác qua bài thơ nổi tiếng Tiêu tự thần chung được đúc vào thời Minh Mạng.
Liên quan đến các dữ kiện trên, ông Trương Minh Đạt cho rằng Hà Tiên là vùng đất giặc giã liên miên, Trấn thành bị phá nhiều lần, cho nên di vật người xưa khó tồn tại. Bức tượng kim thân A Di đà hiện nay cũng có thể là bức tượng của ngôi chùa cũ được tìm thấy sau này, song chưa có tư liệu nào nói đây là bức tượng của ông Mạc Cửu mang từ Trung Quốc sang hay do ông đúc tại Hà Tiên. Họ Mạc từng đúc tiền riêng thì khả năng đúc tượng không phải không thực hiện được. Riêng về chiếc đại hồng chung, chữ khắc trên chuông quá mờ khó đọc, nhưng theo tư liệu ông có được thì đây là chiếc chuông do hai vợ chồng phật tử hiến cúng vào khoảng năm 1890. Hòa thượng Hoằng Nghĩa hiện còn mộ ở chùa Giác Viên, đã được mời đến làm lễ chứng minh cho chiếc đại hồng chung này. Do đó, không thể nói chiếc chuông được đúc vào thời Minh Mạng. Chiếc chuông trong “Tiêu tự thần chung” một thời âm vang có thể đã bị hủy hoại trong lúc quân Xiêm chiếm đóng Hà Tiên.
Sắc tứ Tam Bảo tự nổi tiếng với Tiêu tự thần chung còn chịu đựng những biến cố thời cuộc về sau. Ni trưởng Như Hải cho biết, năm 1974 khi bà về trụ trì, chùa đã xuống cấp nghiêm trọng vì trước đó mấy năm, do chính quyền Lon Nol đàn áp, nhiều Việt kiều chạy về quê lánh nạn đã đến chùa căng lều tạm ở nhờ. Rồi năm 1978 - 1979, bọn diệt chủng Pôn Pốt tràn sang Hà Tiên bắn giết dân lành, ni sư lại tiếp tục bỏ chùa chạy lên Bãi Ớt lánh nạn.
Kỳ 24: Ba Chúc bên núi Tượng
Miếu Vạn Ban nằm sát chân núi Tượng thuộc ấp An Định, thị trấn Ba Chúc, H.Tịnh Biên (An Giang) là một trong những cơ sở tín ngưỡng của Tứ ân hiếu nghĩa - một dạng tôn giáo cứu thế, nhánh phát triển của Bửu sơn Kỳ hương.
Thị trấn Ba Chúc ngày nay được hình thành từ các cuộc khởi nghĩa chống Pháp hồi cuối thế kỷ 19 ở một số tỉnh Nam kỳ, đặc biệt là cuộc khởi nghĩa do Đức Bổn sư Ngô Lợi lãnh đạo.Chiêu binh khởi nghĩa
Ngô Lợi có thể tên là Ngô Văn Lợi, chữ Hán viết trang trọng là Ngô Tự Lợi. Theo tài liệu của nhà văn Sơn Nam, Ngô Lợi quê ở làng Trà Tân (nay là xã Long Trung, H.Cai Lậy, Tiền Giang), nhưng cũng có người nói quê ông ở Trà Lọt (H.Cái Bè) hoặc Mỏ Cày (Bến Tre)…
Miếu Vạn Ban dưới chân núi Tượng - Ảnh: N.P |
Năm 1878, ông về chùa Hiếu Nghĩa ở làng Hòa Khánh, tổng Phong Hòa (Cái Bè) cùng một đệ tử người địa phương tên là Nguyễn Văn Vi, thường gọi ông Đạo Tư, tổ chức một cuộc lễ làm chay có đến 2.000 người dự. Thực tế đây là cuộc lễ cúng tế những nghĩa sĩ đã hy sinh trong cuộc khởi nghĩa hồi tháng 5.1885 của nghĩa quân làng An Định. Lúc đăng đàn thuyết pháp, Bổn sư Ngô Lợi kêu gọi mọi người hưởng ứng nổi lên chống lại giặc Lang sa cướp nước. Đồng thời để xây dựng phong trào và phát triển lực lượng, ông cấp phát cho hai đệ tử thân tín của mình là Lê Văn Ong và Võ Văn Khả hai cấp bằng Lãnh binh và Phó lãnh binh. Cả ba người Nguyễn Văn Vi, Lê Văn Ong và Võ Văn Khả nguyên là thuộc tướng của Thiên Hộ Dương.
Sau đó Lê Văn Ong và Võ Văn Khả về làng Tân Phú Đông, tổng Thuận Bình (Mỹ Tho) chiêu mộ nghĩa quân, tích trữ lương thực, mua sắm vũ khí, chờ thời cơ chuẩn bị khởi nghĩa. Cai tổng Thuận Bình cho tay chân theo dõi và đến bắt được một số người nộp cho chính quyền cấp trên khai thác.
Khởi nghĩa không thành
Trước nguy cơ bại lộ, Lãnh binh Ong và Phó lãnh binh Khả quyết định khởi nghĩa. Chiều 30.4.1878, nghĩa quân tập trung tại làng Tân Phú Đông chờ lệnh. Thực dân Pháp hay tin vội điều động binh lực tăng viện cho đồn Thuộc Nhiêu và đồn Cai Lậy. Đích thân Chánh Tham biện Mỹ Tho chỉ huy một đội quân gồm 10 tên lính thủy và 38 lính mã tà với đầy đủ vũ khí dùng một tàu chiến theo sông Tiền tiến về Cai Lậy.
Ngày 2.5.1878, nghĩa quân làm lễ xuất quân ở bờ kinh Bà Bèo (vùng tiếp giáp Đồng Tháp Mười). Hàng trăm người vũ trang bằng gậy gộc, giáo mác đánh trống reo hò, dùng kế nghi binh như sắp tấn công Cai Lậy. Nhưng thực tế đạo quân chủ lực lại tập trung ở làng Cửu Viễn, tổng Thuận Trị (nay là xã Thân Cửu Nghĩa, H.Châu Thành, Tiền Giang) để theo lộ Đông Dương tấn công vào Mỹ Tho. Trên đường tiến quân, nghĩa quân được nhân dân đi theo ủng hộ, thanh thế rất cao.
Cùng lúc đó, tín đồ đệ tử của Ngô Lợi ở Vũng Liêm (Vĩnh Long) cũng sẵn sàng nổi lên hưởng ứng và phối hợp chiến đấu. Theo tờ châu bản ngày mồng 1 tháng 6 năm Tự Đức thứ 31, hai viện Cơ mật và Thương bạc đã dâng lên vua Tự Đức một tờ bẩm về cuộc nổi dậy của “bọn phỉ” ở các xứ Tháp Mười, Cai Lậy và Vũng Liêm. Tờ bẩm này nói rõ bọn nổi lên phần nhiều người trong đạo Thích, nhưng khi hành binh dùng nhiều ảo thuật, hoặc kết cỏ thành hình nộm, sai cầm cờ, cầm kiếm, đánh trống reo hò tiếng người... (Châu bản triều Nguyễn tháng 4, ngày mồng 7 - viện Cơ mật (HTBC-No 2171) - Châu bản triều Nguyễn - Tư liệu Phật giáo - Lý Kim Hoa - NXB Văn hóa Thông tin 2003).
Tuy nhiên, nhờ có hệ thống “dây thép” nên thực dân Pháp đã được thông tin nhanh chóng và có sự chuẩn bị đối phó. Tham biện Mỹ Tho đã ra lệnh cho Đốc phủ Trần Bá Lộc dẫn quân đàn áp. Ông Lê Văn Ong rút về Tháp Mười tiếp tục chỉ huy kháng chiến. Ông Võ Văn Khả bị bệnh nặng phải lánh về quê nhà ở làng An Mỹ, tổng Lợi Thuận (nay là xã Phú An, H.Cai Lậy, Tiền Giang) điều trị. Nhưng sau đó quân Pháp đã bắt được hai ông và đem ra xử chém tại đồn Thuộc Nhiêu:
“Rủi ro Ong, Khả vận nghèo
Bắt đều chém tại Thuộc Nhiêu cựu đồn”.
(Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca - Nguyễn Liên Phong - 1909)
Sau cuộc khởi nghĩa, Trần Bá Lộc tổ chức các cuộc đàn áp gắt gao. Nhiều hương chức đã đem quỹ nộp cho nghĩa quân đều bị bắt tra tấn, tù đày. Làng Tân Phú Đông bị cắt chuyển về tổng Lợi Trinh, gần Cai Lậy để dễ kiểm soát hơn. Những tín đồ của Đức Bổn sư Ngô Lợi ở vùng Cai Lậy và Vũng Liêm phải rời địa phương tìm nơi khác lánh nạn. Theo nghiên cứu của nhà văn Sơn Nam, trong số này có 30 nghĩa quân lánh nạn ở núi Tượng (Châu Đốc). Ba chục người này đã khai phá lập một xóm nhỏ gọi là xóm Ba Chục, về sau phát triển thành làng xã, nói trại thành Ba Chúc, tức thị trấn Ba Chúc bây giờ. Do đó, ngày nay khi đến Ba Chúc hỏi thăm có nhiều người cho biết quê quán của mình ở vùng Cai Lậy hoặc Bến Tranh, tỉnh Tiền Giang.
Theo ông Nguyễn Văn Thắm, ông từ quản lý chăm sóc miếu Vạn Ban bên chân núi Tượng, hiện nay quanh núi Tượng có khoảng vài ngàn tín đồ Tứ ân hiếu nghĩa. Những người có trách nhiệm trong đạo đều để tóc để râu - biểu thị tâm huyết giữ gìn cổ tục của người xưa.
(thanhnien.com.vn) Ngọc Phan - Hoàng Phương
Nguồn sưu tầm by Ngoan Trương Công
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét