Truyền thuyết kể rằng, khi Nguyễn Hoàng vào làm Trấn thủ xứ Thuận Hóa, ông đã đích thân đi xem xét địa thế ở đây nhằm chuẩn bị cho mưu đồ mở mang cơ nghiệp, xây dựng giang sơn cho dòng họ Nguyễn sau này. Trong một lần rong ruổi vó ngựa dọc bờ sông Hương ngược lên phía đầu nguồn, ông bắt gặp một ngọn đồi nhỏ nhô lên bên dòng nước trong xanh uốn khúc, thế đất như hình một con rồng đang quay đầu nhìn lại. Hỏi ra mới biết, ngọn đồi này có tên là đồi Hà Khê. Người dân địa phương cho biết, nơi đây ban đêm thường có một bà lão mặc áo đỏ quần lục xuất hiện trên đồi, nói với mọi người “Rồi đây sẽ có một vị chân chúa đến lập chùa để tụ linh khí, làm bền long mạch, cho nước Nam hùng mạnh“. Vì thế, nơi đây còn được gọi là Thiên Mụ Sơn (núi Thiên Mụ). Tư tưởng lớn của chúa Nguyễn Hoàng dường như cùng bắt nhịp được với ý nguyện của dân chúng. Ông cho dựng một ngôi chùa trên đồi, ngoảnh mặt ra sông Hương, đặt tên là “Thiên Mụ Tự“ (chùa Thiên Mụ).
Sông Hương và chùa Thiên Mụ phía bờ bên kia
Sông Hương phía thượng nguồn
Trong thực tế, ở đây đã từng tồn tại một ngôi chùa của người Chàm - di tích được nhắc đến trong sách Ô châu cận lục của Dương Văn An vào năm 1553. Nhưng phải đến năm 1601 với quyết định của chúa Nguyễn Hoàng, chùa mới chính thức được xây dựng.
Theo đà phát triển và hưng thịnh của Phật giáo xứ Đàng Trong, chùa được xây dựng lại quy mô hơn dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725). Năm 1710, chúa cho đúc một chiếc chuông lớn có khắc một bài minh trên đó. Đến năm 1714, chúa lại cho đại trùng tu chùa với hàng chục công trình kiến trúc hết sức quy mô như điện Thiên Vương, điện Đại Hùng, nhà Thuyết Pháp, lầu Tàng Kinh, phòng Tăng, nhà Thiền... mà nhiều công trình trong số đó ngày nay không còn nữa. Ông còn đích thân viết bài văn bia nói về việc xây dựng các công trình kiến trúc ở đây, ca tụng triết lý của đạo Phật, ghi rõ sự tích Hòa thượng Thạch Liêm - người có công lớn trong việc giúp chúa Nguyễn chấn hưng Phật giáo ở Đàng Trong. Bia được đặt trên lưng một con rùa đá rất lớn, trang trí đơn sơ nhưng tuyệt đẹp.
Với quy mô được mở rộng và cảnh đẹp tự nhiên, ngay từ thời đó, chùa Thiên Mụ đã trở thành ngôi chùa đẹp nhất xứ Đàng Trong. Trải qua bao biến cố lịch sử, chùa Thiên Mụ đã từng được dùng làm đàn Tế Đất dưới triều Tây Sơn (khoảng năm 1788), rồi được trùng tu tái thiết nhiều lần dưới triều các vua nhà Nguyễn. Năm 1844, nhân dịp mừng lễ “bát thọ“ (mừng sinh nhật thứ tám mươi) của bà Thuận Thiên Cao Hoàng hậu (vợ vua Gia Long, bà nội của vua Thiệu Trị), vua Thiệu Trị kiến trúc lại ngôi chùa một cách quy mô hơn: xây thêm tháp Từ Nhân (sau đổi là Phước Duyên), đình Hương Nguyện và dựng 2 tấm bia ghi chép thơ văn của nhà vua
Chất lượng ảnh rõ nét đem đến cảm giác sai lệch về thời gian, thực tế nó
được chụp rất xa bây giờ vì so sánh với các bức ảnh khác khu vực quanh
tháp chưa hề có cây trồng
Tháp Phước Duyên là một biểu tượng nổi tiếng gắn liền với chùa Thiên Mụ.
Tháp cao 21m, gồm bảy tầng, được xây dựng ở phía trước chùa. Mỗi tầng
tháp đều có thờ tượng Phật. Bên trong có cầu thang hình xoắn ốc dẫn lên
tầng trên cùng, nơi trước đây có thờ tượng Phật bằng vàng. Phía trước
tháp là đình Hương Nguyện.
Chùa Thiên Mụ được xếp vào hai mươi thắng cảnh đất Thần Kinh với bài thơ
“Thiên Mụ chung thanh” do đích thân vua Thiệu trị sáng tác và được ghi
vào bia đá dựng gần cổng chùa. Năm 1862, dưới thời vua Tự Đức, để cầu
mong có con nối dõi, nhà vua sợ chữ “Thiên“ phạm đến Trời nên cho đổi từ
“Thiên Mụ” thành “Linh Mụ” (Bà mụ linh thiêng). Mãi đến năm 1869, vua
mới cho dùng lại tên Thiên Mụ như trước. Bởi vậy trong dân gian, người
ta vẫn dùng cả hai tên khi muốn nhắc đến chùa này.
Trận bão khủng khiếp năm 1904 đã tàn phá chùa nặng nề. Nhiều công trình
bị hư hỏng, trong đó đình Hương Nguyện bị sụp đổ hoàn toàn. Qua nhiều
đợt trùng tu lớn nhỏ, ngoài những công trình kiến trúc như tháp Phước
Duyên, điện Đại Hùng, điện Địa Tạng, điện Quan Âm... cùng bia đá, chuông
đồng, chùa Thiên Mụ ngày nay còn là nơi có nhiều cổ vật quí giá không
chỉ về mặt lịch sử mà còn cả về nghệ thuật. Những bức tượng Hộ Pháp,
tượng Thập Vương, tượng Phật Di Lặc, tượng Tam Thế Phật... hay những
hoành phi, câu đối ở đây đều ghi dấu những thời kỳ lịch sử vàng son của
chùa Thiên Mụ.
Trong khuôn viên của chùa là cả một vườn hoa cỏ được chăm sóc vun trồng hàng ngày. Ở đó, hòn non bộ của vị tổ nghề hát tuồng Việt Nam Đào Tấn được đặt gần chiếc xe ô tô - di vật của cố Hòa thượng Thích Quảng Đức để lại trước khi châm lửa tự thiêu để phản đối chính sách đàn áp Phật giáo của chế độ Ngô Đình Diệm năm 1963. Cuối khu vườn là khu mộ tháp của cố Hòa thượng Thích Đôn Hậu, vị trụ trì nổi tiếng của chùa Thiên Mụ, người đã cống hiến cả cuộc đời mình cho những hoạt động ích đạo giúp đời.
Tọa lạc bên bờ sông Hương thơ mộng của miền Trung, chùa Thiên Mụ với kiến trúc cổ kính đã góp phần điểm tô cho bức tranh thiên nhiên nơi đây càng thêm duyên dáng, thi vị. Tiếng chuông chùa như linh hồn của Huế, vang vọng mãi theo dòng nước sông Hương chảy qua trước Kinh Thành, xuôi về cửa biển, đọng lại trong lòng khách phương xa đến Huế một nỗi niềm vương vấn chốn Thiền Kinh.
Huỳnh Thị Anh Vân
Tọa lạc ở đường Báo Quốc, thuộc phường Phường Đúc, thành phố Huế, chùa Báo Quốc ban đầu có tên là Hàm Long Thiên Thọ Tự, do Thiền sư Giác Phong dựng vào cuối thế kỷ XVII, đời Chúa Nguyễn Phúc Tần. Đến năm 1747, Chúa Nguyễn Phúc Khoát ban cho chùa tấm biển "Sắc Tứ Báo Quốc Tự" có ghi dòng chữ: "Quốc Vương Từ Tế đạo nhân ngự đề".
Chùa được xây dựng theo kiểu chữ "Khẩu-口” trên đồi Ham Long rộng khoảng 2 hecta. Qua khỏi cổng tam quan cổ kính là một khoản sân đất có hai hàng cổ nhãn uy nghi tiếp đến là khoảng sân trên trồng nhiều cây tùng có lan can bao bọc.
Chánh điện chùa ẩn sau tán cây ngọc lan trầm mặc và hiền hoà. Trong chùa thờ tự rất trang nghiêm. Chính giữa trên cao tôn trí bộ tượng Tam thế Phật rất xưa, hậu liêu thờ tổ tôn trí bình tro cốt của Tổ Giác Phong mà được biết vào năm 1958 khi khai tháp Tổ Giác Phong để quy vào Niết Bàn Đại Tháp chư Tăng ở Huế đã gặp được bình tro thờ ở tầng trên Tháp. Bình tro từ đó được cung thỉnh vào bàn thờ ở bàn thờ Tổ cho đến nay.
Vào thời Tây Sơn, chùa đã bị chiếm đóng và trưng dụng làm kho chứa diêm tiêu. Sau đó vào năm 1808, Hoàng Hậu Hiếu Khương cho tái thiết ngôi chùa, xây tam quan, đúc đại hồng chung, bảo khánh và đổi tên là chùa Hàm Long Thiên Thọ tự và mời thiền sư Phổ Tịnh làm trụ trì.
Năm 1824, vua Minh Mạng ngự thăm chùa và sắc tứ tên "Báo Quốc Tự". Nhà vua đã tổ chức đại giới đàn tại chùa nhân lễ Vạn thọ tứ tuần đại khánh vào năm 1830. Đến năm 1858, do chùa bị hư hỏng nhiều, vua Tự Đức và Hoàng Thái hậu Từ Dũ đã ban tiền trùng tu ngôi chánh điện và các công trình khác.
Trong phong trào chấn hưng Phật giáo vào những năm 1930, chùa đã có
nhiều đóng góp về mặt đào tạo tăng tài cho Phật giáo. Năm 1935, trường
Sơ đẳng Phật giáo được mở tại chùa. Đến năm 1940, trường Cao đẳng Phật
giáo cũng lại được mở tại đây. Năm 1957, Giáo hội Tăng già Thừa Thiên và
Ban Quản trị chùa đã tổ chức đại trùng tu ngôi chùa. Hòa thượng Thích
Trí Thủ, vừa là Giám đốc Phật học đường, vừa là trụ trì chùa, đã có
những đóng góp to lớn cho Phật giáo nói chung và cho việc tái thiết ngôi
tổ đình trang nghiêm với những nét kiến trúc cổ kính nói riêng.
năm 1959 đến trước 1975 trường trung tiểu học tư thục Bồ Đề Hàm Long ra
đời, đây là một ngôi trường đã lưu dấu nhiều kỷ niệm đẹp của bao thế hệ
học trò là Tăng, Ni và Phật tử Huế. Ngày nay, tên trường Hàm Long chỉ
còn là một tấm bản rêu phong ngay ngã ba Điện Biên Phủ-Báo Quốc, là dấu
tích một thời cũng là kỷ niệm ngọt ngào như nước giếng Hàm Long.
Giếng
Hàm Long (tên chữ là Hàm Long Tĩnh), theo bia “Hàm Long Tỉnh” thì Giếng
Hàm Long nằm ngay dưới chân đồi Hàm Long xuất hiện cùng thời với Hoà
thượng Giác Phong khai sơn (khoảng năm 1674). Giếng có một mạch nước
theo lỗ đá phun ra như vòi rồng, có nước trong, thơm và ngọt. Nước giếng
này sau đó được tiến dâng lên các Chúa, còn người dân thì tuyệt đối
không được phép dùng, từ đó nó trở thành một giếng thiêng, giếng cấm:
cho nên mới có câu ca dao:
Nước giếng Hàm Long đã trong lại ngọt;
Em thương anh rầy có Bụt chứng tri
Hoặc là:
Chùa Hàm Long thơm trong giếng cấm,
Diêm tiêu nào ngăn được nước trong.
Theo Trung tâm văn hóa Phật giáo Liễu Quán
Từ Hiếu là một
ngôi chùa cổ nhất ở Huế, nằm cách Kinh thành khoảng 5 km về phía Tây
Nam. Chùa Từ Hiếu, còn có tên gọi là chùa "Thái giám" (Pagode des
Eunuques). Nơi đây có một nghĩa trang của những con người sinh ra và mất
đi, không mang dấu ấn của giới tính và tuổi tác…
Nơi bình yên mãi mãi
Mặc cho mưa nắng, dòng suối đào vẫn lặng lẽ, lượn qua những đồi thông, chảy vòng quanh chùa, rồi chậm rãi trôi xa. Nương náu dưới bóng thông già bên suối, có 25 ngôi mộ cổ còn nguyên vẹn, nằm thành 3 hàng được sắp xếp theo chức vụ của các quan thái giám xưa kia. Khu nghĩa địa này được dựng lên vào năm Thành Thái thứ 5 (1893).
Tiền thân của chùa Thái Giám - Huế ( 1848) là Thảo Am an dưỡng, được mở rộng và xây dựng nhờ vào sự ủng hộ tài chính khá lớn của một thái giám tên là Châu Phước Năng. Ông này vận động được cả Dục Tông Anh Hoàng đế (Tự Đức) và Hoàng Thái hậu Từ Dũ, cùng nhiều đại thần trong triều góp tiền của. Bên trái chùa có nghĩa địa thái giám, rộng đến 1.000 m2. Khi mất trên mộ của mỗi thái giám đều có một tấm bia, do ông Cao Xuân Dục soạn "Sống hay chết, ở đây chúng tôi đều được yên tĩnh".
Lúc còn sống, dưới thời phong kiến, đã có rất nhiều người mơ ước địa vị của họ vì có chức tước bổng lộc, không phải lao động vất vả mà vẫn sống no đủ tới già. Mặc dù vẫn được hưởng vinh hoa, phú quý, nhưng để phân biệt với tầng lớp quan lại khác, họ được cấp một loại trang phục riêng bằng lụa xanh, dệt hoa trước ngực, đội mũ cứng hoặc khăn đóng. Đến lúc già yếu, họ vẫn bị triều đình phân biệt đối xử. Cung Giám viện ở góc đường Đặng Thái Thân và Đoàn Thị Điểm ngày nay, là nơi họ phải ra đó nghỉ dưỡng, để khi qua đời hồn ma của họ không còn ở trong Hoàng Thành (theo luật của triều Nguyễn).
Đối với hoạn quan thì bộ phận đã bị cắt rời của cơ thể là một vật cực kì quan trọng, được xử lí bằng những kĩ thuật riêng rồi đem đặt vào trong một chiếc bình có hương liệu và niêm phong lại. Mỗi khi được thăng quan tiến chức, họ phải trình chiếc bình đó cho một ban kiểm tra. Khi già yếu, trở về Cung Giám viện, họ được mang theo chiếc bình ấy để lúc chết được đặt vào trong quan tài, bên cạnh chủ nhân. Bằng không, Diêm vương sẽ biến kẻ bị thiếu "của quý" thành... con lừa, chứ không được đầu thai làm người.
Thân phận nô tài
Chấp hành quy tắc "tứ bất" của Gia Long, vua Minh Mạng đã ban bố một tờ dụ khắc vào bia Văn Miếu - Huế quy định rõ các Thái giám tuyệt đối không được tham gia triều chính, không được xếp vào hàng quan lại. Tuy nhiên, để đãi ngộ cho công lao tận tụy phục vụ nội cung, những thái giám thuộc 4 đẳng trật cao nhất (Quảng vụ, Điển sự, Kiểm sự và Phụng nghi) có thể xin chức Nhiêu Phụ (cho cha) hoặc Miễn Nhiêu (cho em, cháu) để những người ấy được miễn thuế suốt đời. Thời Nguyễn, đội ngũ thái giám được chia thành 5 đẳng trật : Thủ đẳng, Thứ đẳng, Trung đẳng, Á đẳng và Hạ đẳng. Mỗi đẳng trật lại chia thành hai cấp với bổng lộc hằng tháng từ 24 quan tiền, 24 bát gạo đến 72 quan tiền và 48 bát gạo. Đến đời vua Thành Thái năm thứ hai (1890), chế độ trả lương bằng gạo bị xoá bỏ, thay bằng tiền với 7 mức, từ 180 đồng đến 540 đồng/năm.
Cùng là thái giám, nhưng vẫn phân biệt hai loại: giám sinh và giám lặt. Giám lặt là những người bình thường, tự nguyện bị thiến để được vào cung làm thái giám. Giám sinh được tôn trọng hơn, theo luật triều Nguyễn, năm Minh Mạng thứ 16 (1836), khi có giám sinh chào đời, cha mẹ đứa trẻ phải báo ngay cho viên chức làng, xã để lập danh sách báo lên cho Bộ Lễ. Khi đứa trẻ lên 10 được đưa vào cung dạy dỗ lễ nghi, kiến thức, cách xử sự… trong hoàng cung, khi lớn lên thì tuyển vào đội quân thái giám. Làng nào giấu giếm "giám sinh" sẽ bị phạt rất nặng. Để khuyến khích sự phát hiện giám sinh trên cả nước, làng nào có giám sinh nghiễm nhiên sẽ được miễn thuế 3 năm, do đó những đứa trẻ sinh ra bị khiếm khuyết không những không bị coi thường, mà còn được dân làng gọi là "ông Bộ".
Thật ra đội ngũ thái giám thời Nguyễn không nhiều chỉ khoảng 200 người. Đến năm 1914, việc tuyển chọn thái giám thực sự chấm dứt, chỉ còn 9 vị được lưu lại trong cung. Theo cụ Phạm Khắc Hoè, đến tháng 8-1945 các Thái giám cuối cùng mới rời khỏi hoàng cung Huế.
Hiện nay, trong chùa Từ Hiếu, ở hậu điện bên phải gọi là Quảng Hiếu Đường, đang là nơi thờ tự các Thái giám. Đặc biệt, còn có một án thờ tả quân Lê Văn Duyệt, bởi chính Lê Văn Duyệt cũng là một thái giám.
Trên hành trình du lịch "tâm linh" đến Huế, đây sẽ là một địa chỉ độc đáo không thể bỏ qua
Vũ Hào (Báo Người cao tuổi)
vấn vít
Bàn đá nghỉ chân
Trong vườn tháp có tháp mộ của nhiều danh tăng ...
Một tháp mộ
Nơi bình yên mãi mãi
Mặc cho mưa nắng, dòng suối đào vẫn lặng lẽ, lượn qua những đồi thông, chảy vòng quanh chùa, rồi chậm rãi trôi xa. Nương náu dưới bóng thông già bên suối, có 25 ngôi mộ cổ còn nguyên vẹn, nằm thành 3 hàng được sắp xếp theo chức vụ của các quan thái giám xưa kia. Khu nghĩa địa này được dựng lên vào năm Thành Thái thứ 5 (1893).
Tiền thân của chùa Thái Giám - Huế ( 1848) là Thảo Am an dưỡng, được mở rộng và xây dựng nhờ vào sự ủng hộ tài chính khá lớn của một thái giám tên là Châu Phước Năng. Ông này vận động được cả Dục Tông Anh Hoàng đế (Tự Đức) và Hoàng Thái hậu Từ Dũ, cùng nhiều đại thần trong triều góp tiền của. Bên trái chùa có nghĩa địa thái giám, rộng đến 1.000 m2. Khi mất trên mộ của mỗi thái giám đều có một tấm bia, do ông Cao Xuân Dục soạn "Sống hay chết, ở đây chúng tôi đều được yên tĩnh".
Lúc còn sống, dưới thời phong kiến, đã có rất nhiều người mơ ước địa vị của họ vì có chức tước bổng lộc, không phải lao động vất vả mà vẫn sống no đủ tới già. Mặc dù vẫn được hưởng vinh hoa, phú quý, nhưng để phân biệt với tầng lớp quan lại khác, họ được cấp một loại trang phục riêng bằng lụa xanh, dệt hoa trước ngực, đội mũ cứng hoặc khăn đóng. Đến lúc già yếu, họ vẫn bị triều đình phân biệt đối xử. Cung Giám viện ở góc đường Đặng Thái Thân và Đoàn Thị Điểm ngày nay, là nơi họ phải ra đó nghỉ dưỡng, để khi qua đời hồn ma của họ không còn ở trong Hoàng Thành (theo luật của triều Nguyễn).
Đối với hoạn quan thì bộ phận đã bị cắt rời của cơ thể là một vật cực kì quan trọng, được xử lí bằng những kĩ thuật riêng rồi đem đặt vào trong một chiếc bình có hương liệu và niêm phong lại. Mỗi khi được thăng quan tiến chức, họ phải trình chiếc bình đó cho một ban kiểm tra. Khi già yếu, trở về Cung Giám viện, họ được mang theo chiếc bình ấy để lúc chết được đặt vào trong quan tài, bên cạnh chủ nhân. Bằng không, Diêm vương sẽ biến kẻ bị thiếu "của quý" thành... con lừa, chứ không được đầu thai làm người.
Thân phận nô tài
Chấp hành quy tắc "tứ bất" của Gia Long, vua Minh Mạng đã ban bố một tờ dụ khắc vào bia Văn Miếu - Huế quy định rõ các Thái giám tuyệt đối không được tham gia triều chính, không được xếp vào hàng quan lại. Tuy nhiên, để đãi ngộ cho công lao tận tụy phục vụ nội cung, những thái giám thuộc 4 đẳng trật cao nhất (Quảng vụ, Điển sự, Kiểm sự và Phụng nghi) có thể xin chức Nhiêu Phụ (cho cha) hoặc Miễn Nhiêu (cho em, cháu) để những người ấy được miễn thuế suốt đời. Thời Nguyễn, đội ngũ thái giám được chia thành 5 đẳng trật : Thủ đẳng, Thứ đẳng, Trung đẳng, Á đẳng và Hạ đẳng. Mỗi đẳng trật lại chia thành hai cấp với bổng lộc hằng tháng từ 24 quan tiền, 24 bát gạo đến 72 quan tiền và 48 bát gạo. Đến đời vua Thành Thái năm thứ hai (1890), chế độ trả lương bằng gạo bị xoá bỏ, thay bằng tiền với 7 mức, từ 180 đồng đến 540 đồng/năm.
Cùng là thái giám, nhưng vẫn phân biệt hai loại: giám sinh và giám lặt. Giám lặt là những người bình thường, tự nguyện bị thiến để được vào cung làm thái giám. Giám sinh được tôn trọng hơn, theo luật triều Nguyễn, năm Minh Mạng thứ 16 (1836), khi có giám sinh chào đời, cha mẹ đứa trẻ phải báo ngay cho viên chức làng, xã để lập danh sách báo lên cho Bộ Lễ. Khi đứa trẻ lên 10 được đưa vào cung dạy dỗ lễ nghi, kiến thức, cách xử sự… trong hoàng cung, khi lớn lên thì tuyển vào đội quân thái giám. Làng nào giấu giếm "giám sinh" sẽ bị phạt rất nặng. Để khuyến khích sự phát hiện giám sinh trên cả nước, làng nào có giám sinh nghiễm nhiên sẽ được miễn thuế 3 năm, do đó những đứa trẻ sinh ra bị khiếm khuyết không những không bị coi thường, mà còn được dân làng gọi là "ông Bộ".
Thật ra đội ngũ thái giám thời Nguyễn không nhiều chỉ khoảng 200 người. Đến năm 1914, việc tuyển chọn thái giám thực sự chấm dứt, chỉ còn 9 vị được lưu lại trong cung. Theo cụ Phạm Khắc Hoè, đến tháng 8-1945 các Thái giám cuối cùng mới rời khỏi hoàng cung Huế.
Hiện nay, trong chùa Từ Hiếu, ở hậu điện bên phải gọi là Quảng Hiếu Đường, đang là nơi thờ tự các Thái giám. Đặc biệt, còn có một án thờ tả quân Lê Văn Duyệt, bởi chính Lê Văn Duyệt cũng là một thái giám.
Trên hành trình du lịch "tâm linh" đến Huế, đây sẽ là một địa chỉ độc đáo không thể bỏ qua
Vũ Hào (Báo Người cao tuổi)
Ban thờ chính trong chùa Từ Hiếu
Lầu bia bên chính điện
Chùa Từ Hiếu Ngày Mưa của Tim Vo trên Flickr.com
Hồ Bán nguyệt phía sau Tam quan chùa
Giếng cổ
Giếng cổ
Chính điện
Trầm mặc trong mưa
Lầu bia hai bên chính điện ghi lịch sử xây dựng chùa
Trầu không
vấn vít
Bàn đá nghỉ chân
Xung quanh chùa Từ Hiếu có khá nhiều lăng mộ các vị phi tần của các chúa Nguyễn
Trong vườn tháp có tháp mộ của nhiều danh tăng ...
Một tháp mộ
Cổng
bên trái vào nghĩa địa thái giám. Bên trong là 25 ngôi mộ trong đó có 2
ngôi mộ chờ để dành sẵn cho 2 hoạn quan vào thời điểm đó.
“Trong
khi sống chúng tôi sẽ tìm thấy ở đây sự yên lặng, khi đau ốm chúng tôi
đến đây lánh mình và sau khi chết chúng tôi được an táng cùng nhau. Sống
hay chết, ở đây chúng tôi đều được yên tĩnh” - Cổng chính giữa là một ngôi miếu có tấm bia đá được dựng từ năm 1901 với lời khắc do Cao Xuân Dục soạn hết sức cảm động.
Toàn cảnh Tam quan nghĩa địa thái giám
Rêu phong
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét