Sông Sài Gòn (Bến Nghé) chạy qua quận 1 thành phố Sài Gòn quẹo sang trái biến thành rạch Bến Nghé. Sau đó vì lý do kinh tế vận chuyển thương mại, kinh Tẽ lại được đào thêm năm 1905.
Rạch Bến Nghé, còn gọi là kinh Chợ Lớn, thời nhà Nguyễn còn gọi là sông Bình Dương. Thời Pháp thuộc, người Pháp gọi là Arroyo Chinois (Kinh Người Tàu). Tưởng cũng nên biết rằng người Tàu từ miền Cù lao Phố chạy về đây lập nghiệp, xây dựng cơ nghiệp dọc hai bờ rạch, ghe thuyền tấp nập thu hút dân thương hồ miền Tây, tứ xứ, tụ hợp về đây kể cả người ngoại quốc, họ gọi vùng này là Đề Ngạn, người Việt gọi là kinh Tàu Hủ.
Rạch Bến Nghé chạy dài từ Bến Nhà Rồng – Cột cờ Thủ ngữ đến kinh Lò Gốm, đường nước thiên nhiên. Hợp lưu dọc theo rạch Bến Nghé có những hệ thống kinh tự nhiên, mà hai rạch quan trọng là rạch Ông Lớn và rạch ông Nhỏ và rạch Xóm Củi.
Rạch Bến Nghé chảy về phía Tây thì gặp Rạch Lò Gốm hợp lưu để chảy về phía Nam ra Rạch Cát, nhưng đoạn này thường cạn nước, ứ đọng gây trở ngại cho việc thương thuyền. Nhận được tầm quan trọng trong việc vận chuyển thương thuyền, năm 1772 Chúa Nguyễn ra lệnh cho ông Nguyễn Cửu Đàm đào lại đoạn này từ nơi giáp nước của rạch Bến Nghé và rạch Lò Gốm chảy từ phía Tây (Phú Thọ, Phú Lâm xuống). Kinh được đào thẳng tắp về phía Nam nối Sa giang (rạch Cát), ông đặt tên cho kinh này là Ruột Ngựa (Mã trường Giang). Năm 1819, kinh Bến Nghé từ chỗ giáp nước với rạch Ông Nhỏ (Tiểu Phong Giang) – khúc nhà thương Chợ Quán – Bịnh viện Nhiệt đới ngày nay đến kinh Ruột Ngựa vì “chảy quanh co mà nhỏ hẹp, khuất khúc, nước cạn” nên Gia Long ra lệnh cho Huỳnh Công lý, phó tổng trấn thành Gia Định, đào lại khúc này và được Vua Gia Long đặt tên là An thông hà (sông An thông) (Trịnh Hoài Đức (Gia định thành Thông Chí, viết vào khoảng 1820-1822)),
Đường nước kinh rạch Bến Nghé – An Thông – rạch Lò Gốm chảy xuống kinh Ruột Ngựa rồi hợp lưu tiếp giáp với các đường nước chảy về phía Tây (về miền Tây) và miền Đông (Biên Hòa và miền Trung, Bắc) là cửa ngõ quan trọng của thương thuyền vào Bến Nghé Sàigòn Chợ Lớn.
Kinh Ruột Ngựa trở thành kinh trọng yếu để vào trung tâm thương mại Sài gòn (khi người Pháp vào thì họ gọi là Chợ Lớn (Sài Gòn (cũ) lúc mới khai, sau lập lại khu vực mới quanh thành Phụng lấy tên Sàigòn (mới). Để giảm thiểu áp lực lưu lượng vận chuyển thương mại cho kinh Ruột Ngựa cũng như rạch Bến Nghé, kinh Tẽ được đào năm 1905-1906 xuống đến cầu chữ Y. Đoạn từ cầu chữ Y xuống rạch Lò Gốm được đào song song với rạch với Rạch Bến Nghé (kinh Tàu Hủ) người Pháp gọi là Canal Doublement, người Việt, Kinh Đôi.
Về phía khu trung tâm Chợ Lớn (Sài Gòn xưa), vây quanh bởi đường Nguyễn Tri Phương về phía Đông; rạch Bến Nghé – Tàu Hủ phía Nam; đường Hùng Vương phía Bắc và Dương Công Trừng (Nguyễn Thị Nhỏ) phía Tây. Vùng này có kinh Bãi Sậy, rạch Chợ Lớn (không nên nhầm với Rạch Bến Nghé (kinh Tàu Hủ, Arroyo Chinois) và Kinh Phố Xếp,ba kinh rạch này đều là phụ lưu của Rạch Bến Nghé, Kinh Bãi Sậy và Rạch Chợ Lớn chảy về phía Tây, trong khi kinh Phố Xếp về phía Bắc.
Hình
29: Bản Đồ 1874
chưa có kinh Tẽ
Tham khảo bản đồ
này vẫn còn thấy rạch Chợ Lớn chưa bị
lấp (nằm ngay vị trí đường Hải
Thượng Lãn Ông ngày nay), và kinh Phố Xếp đào chạy
thẳng hướng Bắc về
phía Chợ Rẫy – nơi người Tàu
trồng rau cải cung cấp cho thành phố – là khu vực nhà thương Chợ Rẫy ngày nay. Tên Phố Xếp do kinh chạy
trước nhà ông Đốc Phủ Chợ Lớn (theo
Trương Vĩnh Ký). Đường Cây Mai (Nguyễn Trãi) có một cầu bắc ngang Kinh
Phố xếp gọi là Cầu Phố (theo TVK). Kinh Phố
Xếp bị lấp trở thành “đường Phố
Xếp, trước 1975 là đường Tổng
Đốc Phương, bây giờ là Châu Văn Liêm – Thuận Kiều. Đường Vạn Kiếp khi
này vẫn còn là một đoạn kinh đào thẳng
nối vào kênh Tàu Hủ. Bản đồ 1874 này cho
biết rõ vị trí đầu tiên của khu vực
chợ Nhà Lồng (còn được gọi là Chợ
Củ, Trung tâm – Marché Central), tức khu vực Bưu
Điện quận 5 ngày nay, với những khu vực tô
đậm hình tam giác. (Xem bản đồ phía trên).Cầu bắc ngang rạch Bến Nghé (kinh Tàu Hủ-Arroyo Chinois).
Từ sông Sàigòn thuyền qua cột cờ Thủ Ngữ – do người Pháp xây dựng, rẽ phải vào Kinh Bến Nghé, người Pháp đạt tên là Arroyo Chinois, người Việt gọi là kinh Tàu Hủ – Theo học giả Trương Vĩnh Ký (viết năm 1885) và Huỳnh Tịnh Của (viết cuối thế kỷ 19) thì đoạn phố dọc hai bên rạch Chợ Lớn (Bến Nghé) được gọi là Tàu Khậu, đó là cách người Triều Châu phát âm từ “thổ khố” (khu nhà gạch), sau trại âm thành Tàu Hủ.
Người Pháp gọi là Arroyo Chinois để phản ảnh hệ thống sông rạch nơi đây có đông đảo người Tàu buôn bán, ghe thuyền tấp nập đến từ muôn phương trao đổi hàng hóa, người Tàu đóng một vai trò kinh tế quan trọng qua hệ thống giao dịch, tổ hợp thương mại và tài chính trong khu vực với người Trung Hoa (từ Quảng Đông, triều Châu, Phúc Kiến…), người Âu Châu, Nhật, Thái, Ấn…Những sản phẩm thương mại chất đầy ở kho, vựa dọc hai bên kinh rạch như gạo, muối, cá khô, đường, tiêu…cũng như hàng hóa đã chế biến từ Trung Hoa, Ấn Độ, Tân Gia Ba (Singapore) …
Thuyền qua khỏi nhà Rồng và cột cờ Thủ Ngữ rẽ phải vào Kinh Bến Nghé (kinh Tàu Hủ, Arroyo Chinois, sông Bình Dương) phải đi qua một chiếc cầu Quay, bắc ngang kinh đi qua bến Nhà Rồng và Khánh Hội. Hình kế tiếp cho thấy cầu quay khúc giữa cho tàu buôn qua lại. Cầu được xây năm 1904 nhưng không biết hết quay nằm nào.
Hình
30 Hình Cầu Quay Khánh
Hội
Hình
31: Không ảnh Cầu Khánh
Hội và cầu Mống 1955 by Raymond Cauchetier
Hình
32:Cầu Khánh Hội khi còn
đường xe lửa năm 1948 không còn khả năng
quay nữa (hình Jack Birns)
Cầu MốngCầu Mống từ Bến Chương Dương qua Bến Vân Đồn đi Vĩnh Hội.
Hình
33: Xe kiếng chạy trên
cầu Mống
Hình
34: Ghe thuyền neo
đậu bến Chương Dương cạnh cầu
Mống.
Cầu Mống (Arc en Ciel) nối
liền Bến Chương Dương với bến Vân
Đồn. Toà nhà lớn nằm phía bến Chương
Dương được dùng làm Thượng Viện
của VNCH.Cầu nầy do công ty vận chuyển hàng hải Pháp Messageries maritimes bỏ vốn mướn công ty xây dựng Levallois Perret (tức Eiffel cũ) xây cất – có thể là trong cùng một giai đoạn với việc xây cất Cầu Quay Khánh Hội – do đó người Pháp cũng gọi cầu nầy là cầu “Công ty Messageries Maritimes” Hai khung đường xe chạy, một để đi lên cầu sang Vĩnh Hội và một để từ cầu phía Bến Vân Đồn/Vĩnh Hội đi qua để xuống bến Chương Dương. Trước 30 tháng 04 năm 1975, bờ kinh Tàu Hủ ở dưới gầm cầu Mống phía bến Chương Dương là hai khuôn viên ấm cúng, thơ mộng cho những cặp tình nhân trẻ, ngày cũng như đêm.
Hình
35: Công viên trước tòa
nhà Hội trường Diên Hồng
Hình
36: Hội trường Diên
Hồng (hình chụp lúc tổ chức Hội Nghị Colombo Plan)
Hội trường Diên Hồng
sau là Thượng Viện thời VNCH nằm góc
đường Công Lý và Bến Chương Dương.
Đi dọc Bến Chưong Dưong về gần về
hướng cầu Mống băng qua đường
Pasteur thì có toà nhà đồ sộ Ngân Hàng Quốc Gia
Việt Nam trước 1975.
Hình
37: Banque L’Indochine sau 1954 thành
Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam
Trước 30 tháng 04 năm 1975,
trụ sở Ngân Hàng Quốc Gia cũng là trụ sở
của Viện Hối Đoái của chính phủ Việt
Nam Cộng Hòa ở góc đường Pasteur và Bến
Chương Dương.Cầu Calmette
Cầu bằng bê tông cốt sắt đã được xây cất xuyên ngang kinh Tàu Hủ trong khoảng cuối thập niên 1950 hoặc đầu thập niên 1960 (có thể là cùng với một thời điểm xây cất cầu Khánh Hội bê tông cốt sắt cố định để thay thế chiếc cầu Quay Khánh Hội ngày xưa). Chân cầu phía bến Chương Dương là nơi bán đồ cũ, còn phía bên kia Vĩnh Hội, gần cầu thì có nhà máy sản xuất thuốc lá Bastos, một trong những thương hiệu nổi tiếng trước thập niên 70.
Hình
38: Cầu Calmette
Cầu Ông Lãnh Cầu Ông Lãnh ngày xưa (1867-1893) không phải là chiếc cầu Ông Lãnh bằng xi măng ở cuối đại lộ Kitchener (Nguyễn Văn Học) bắc ngang qua kinh Tàu Hủ. Ngày xưa, một nhánh nhỏ của kinh Tàu Hủ (vẽ màu xanh trên bản đồ 1893) lấn chiếm sâu vào một phần đại lộ có tên là Boulevard de l’ Abattoir (đại lộ Lò Heo) và chạy xuyên ngang qua xóm Lò Heo (vì xóm nầy có một lò heo/Abattoir). Nhánh rạch nhỏ nầy người bản xứ Nam Kỳ ở Gia Định thuở trước gọi là Rạch Cầu Ông Lãnh vì trên rạch đó có một cái cầu gỗ do một ông Lãnh binh của triều đình An Nam bỏ tiền riêng ra và tốn công xây dựng.
Trên bản đồ Sài Gòn 1867 (Plan de la Ville de SAIGON en 1867) đã thấy có sự ghi chép rõ ràng 3 chữ Cầu Ông Lãnh (đánh dấu trong khung màu đỏ). Về sau, rạch Cầu Ông Lãnh bị lấp mất đi khi đại lộ Kitchener hình thành vào năm 1907 sau thế đại lộ Abattoir và xóm Lò Heo trở thành một phần của xóm Cầu Muối sau nầy (gồm có chợ rau quả, rạp hát và đình Cầu Muối).
Chiếc Cầu Ông Lãnh nguyên thủy bằng cây đã biến mất từ dạo ấy. Chiếc cầu xi măng hình 2 chữ L ghép đối nghịch (giống như hìmh chữ Z ?) ở đầu đại lộ Kitchener (Nguyễn Thái Học) bắc ngang qua con kinh Tàu Hủ tồn tại cho đến những năm tháng gần đây cũng được dân Nam Kỳ Sài Gòn-Chợ Lớn gọi là Cầu Ông Lãnh nhưng bây giờ thì chiếc cầu hình chữ L nầy cũng đã bị phá hủy.
Cũng từ các chi tiết trên hai bản đồ thành phố Sài Gòn nầy mà chúng ta có thể suy định một cách khá vững chắc rằng Cầu Mống Khánh Hội là chiếc cầu lớn đầu tiên được phóng ngang qua Kinh Tàu Hủ ít ra là kể từ năm 1893. http://dactrung.net/dtphorum/m485653-print.aspx
Hình
39: Vị trí sông, cầu Ông Lãnh
Hình
40: Cầu ông Lãnh 1955 by
Raymond Cauchetier
Hình
41: Cầu ông Lãnh thập
niên 50
Cầu Ông Lãnh là khu thương
mại nhôn nhịp nhất vì có nhiều vựa bán sỉ, rau quả từ miền Đông
đưa về (Biên Hoà, Thủ Dầu Một, Đà
Lạt..) trái cây gạo, cau từ miền Tây, Hóc Môn Bà
Điểm đưa lên, ghe đổ xuống kho vựa,
ghe đi lấy hàng, chợ đầy khách thương
buôn, người bỏ mối, kẻ mua sỉ về bán
lại ở các chợ trong khu vực Saigon Chợ Lớn
Gia Định, ngay cả nơi xa như Cần Thơ
(vải vóc, thuốc vấn, thuốc lá,
cau, nước ngọt, rượu…)Khi xưa cầu Ông Lãnh bắc ngang rạch Ông Lãnh nối liền Bến Chương Dương vói bến Vân Đồn, gần đầu kinh Tàu Hủ (cùng phía bên bến Chương Dương). Nơi đây là vị trí cuả chợ Cầu Ông Lãnh với hoạt động kinh doanh ở hai bên đầu cầu (tuy chợ chính nằm về đầu phía Đông xem hình 40).
Gần dọc rạch Ông Lãnh từ chợ Ông Lãnh đi về phía Cầu Quan có chợ Cầu Muối. Gần chợ Cầu Muối có cầu Muối để vận chuyển muối từ ghe đến các vựa muối dọc theo rạch. Cầu Muối có lẽ bị dẹp bỏ khi rạch Cầu Ông Lãnh bị lấp thành đường Kitchener (đường lò Heo, sau đó là Nguyễn Thái Học).
Cầu Kho-Cầu Muối
Dựa theo không ảnh tìm thấy được (hình 42),rạch Cầu Kho chảy ra rạch Bến Nghé (Tàu Hủ) sau bị lấp thời Pháp trở thành đường Blancsubé de Cầu Kho, trở thành đường Huỳnh Quang Tiên (1955), sau 75 thành đường Hồ Hảo Hớn.
Có tài liệu cho rằng rạch Cầu kho đã bị lấp thành đường Phát Diệm, sau 1975 đổi là Trần Đình Xu. Sự nhầm lẫn có thể vì nguyên do người địa phương cứ gọi là đường Cầu Kho.
“Đường Phát-Diệm, tên cũ cũng là tên Việt, đường Nguyễn-Tấn-Nghiệm, vậy mà thiên-hạ cứ gọi là đường Cầu Kho.” Theo Bình Nguyên Lộc http://www.binhnguyenloc.de/pages/TruyenNgan/ThoiThe/DiaDanhCu/ThoiThe-DiaDanhCu.htm
Hình
42: Rạch Cầu Kho
chảy ra kinh Tàu Hủ, cầu Kho bắc ngang rạch trên
đường Bến Chương Dương 1955.
Hình
43: Không ảnh Cầu Kho
1955
Cầu MuốiCầu Muối theo Vương Hồng Sển là nơi bến neo thương thuyền đi biển từ Trung chở muối đổi chác với Sàigòn, hiện chợ cầu Muối vẫn ở vị trí cũ góc phía Bắc đường Cô Giang và Nguyễn Thái Học, nhưng hoạt đông thương mại đã được dời đi nơi khác.
Đối diện với chợ Cầu Muối gần đấy có đình Cầu Muối Nhơn Hòa.
Cầu Chữ Y
Cầu chữ Y được khởi công xây dựng từ cuối năm 1938, tới cuối tháng 8 năm 1941 thì hoàn thành; do công ty Công xưởng và Công trình công chính của Pháp đảm nhiệm thực hiện (Sơn Nam). http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=148853&zoneid=310#.UkkXBtKGooM
Hình
44: Cầu chữ Y bắc ngang kinh Tàu Hủ và Kinh Đôi
Người Sàigòn hay nói qua cầu
chữ Y là qua miệt Bình Xuyên và lò heo Chánh Hưng, nói là lò
heo nhưng làm cả thịt bò, thị ngựa cung cấp
cho cả thành phố. Vùng Chánh Hưng nằm giữa
các nhánh kinh rạch, phía bắc có cầu chữ Y đi
về thành phố trên đường Nguyễn Biểu,
phía nam có cầu Xóm Củi Hiệp Ân, chạy thẳng
cầu Hiệp Ân dọc theo bến Nguyễn Duy sẽ gặp cầu Nhị Thiên
Đường thuộc vùng Chợ Lớn. Từ Saigon
đi qua cầu, dưới chân cầu chữ Y nhánh
phải là đường Hưng Phú, lò Heo Chánh
Hưng nằm trên đường nầy có cửa chánh nằm
trên bến Ba Đình (nay Lê Quang Kim) và một bên hông là
đường Nguyễn Duy. Đường Hưng Phú
chạy dài thẳng xuống có đường Chánh Hưng
cắt ngang để gặp Bến Ba Đình, từ
Bến Ba Đình có những con đò nhỏ sang sông
để qua chợ Hòa Bình. Xưa là vùng đất
ruộng, thời VNCH xáng thổi lấy bùn lấp
đất biến thành khu nhà ở dân. Nhánh bên trái của
cầu là kinh Đôi chảy dài vô Bình An, tiếp ra huyện
Bình Chánh, sau đó nhập với kinh Tàu Hủ đổ
vào sông Vàm Cỏ ở cầu Bình Điền.Cầu chữ Y còn là “chứng nhân” của lịch sử thương đau cận đại.
Đối với cư dân SG-CL trước 1954 bên kia cầu chữ Y là vùng Bình Xuyên – Bảy Viễn – một thời được coi là Lãnh chúa kiểm soát những sòng bạc ở Chợ Lớn, có lực lượng trang bị vũ khí, có giai đọạn Bảy Viễn được Pháp bổ nhiệm làm Giám Đôc Công An xung phong trước 1954.
Sau khi Thủ tướng Ngô Đình Diệm về chấp chánh 1954, Thủ tướng Diệm quyết định cải tổ và thành lập quân đội Quốc gia, ông ra lệnh tiêu diệt lực lượng vũ trang của các giáo phái như Cao Đài, Hòa Hảo và lực lượng Bình Xuyên.
Năm 1955, nhiều cuộc giao tranh ác liệt giữa lực lượng Bình Xuyên đóng quân gần cầu chữ Y (tổng hành dinh của quân Bình Xuyên), nhưng chỉ sau đó bốn, năm ngày, quân đội Quốc Gia đã vượt qua được cầu chữ Y, chiếm lãnh hoàn toàn tổng hành dinh của quân Bình Xuyên.
Cầu chữ Y, còn là nơi giao tranh ác liệt mùng 2 Tết Mậu thân 1968 khi Cộng quân đi từ mật khu Rừng Sát tiến chiếm cầu chữ Y để vào sâu trong nội thành….
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=148853&zoneid=310#.UkkXBtKGooM
Vị trí kinh rạch vùng Chợ Lớn
Hình
45: Bản đồ vị
trí Kinh rạch vùng Chợ Lớn.
Những kinh rạch này đã
bị lấp qua nhiều thời kỳ do tốc
độ đô thị hóa và nhu cầu vận chuyển
trên đường bộ tăng lên và do dó những cây
cầu xưa cũng biến mất theo. Vui lòng tham
khảo bản đồ trên với chú thíchCó thể chia hệ thống kinh rạch trong vùng chính:
A) Kinh Tàu Hủ đoạn từ Xóm Chỉ (đường Tản Đà đến Rạch Lò Gốm)
B) Rạch Chợ Lớn (đoạn chảy từ Xóm Chỉ (hình 19) hướng vế Bắc vào Chợ Lớn, Tây đến giáp nước Rạch Chợ Lớn-Rạch Lò Gốm và kinh Vòng Thành (đường Nguyễn Thị Nhỏ ngày nay)
C) Kinh Bãi Sậy (kinh Hàng Bàng, Canal Bonard)
D) Kinh Vòng Thành (Bao Ngạn – Canal de Ceinture) được đào năm 1875
A-Rạch Chợ Lớn
Rạch Chợ Lớn từ kinh Tàu Hủ đi lên trung tâm Chợ Lớn nối kinh Phố Xếp, sau đó hướng Tây đến rạch Lò Gốm gần đồn Cây Mai cạnh kinh Vòng Thành. Khúc gần Cầu Đường là bến Gaudot nơi có trụ sở nhà buôn Thông Hiệp của Quách Đàm. Gaudot là tên của một trung úy hải quân Pháp, chỉ huy một nhóm thủy binh đánh đồn Kỳ Hòa ngày 25/2/1861, sau làm phó quản trị thành phố Chợ Lớn và năm 1868 chỉ huy cảng thương mại Sài Gòn. Gaudot mất ở Côn Đảo vì bệnh năm 1872.
Năm 1955 Rạch Chợ Lớn bị lấp biến thành đường Khổng Tử, nay là đường Hải Thượng Lãn Ông và Trương Tấn Bửu, nay là Lê Quang Sung.
Kinh Phố Xếp đào năm 1778, cũng bị lấp thành đường Tổng Đốc Phương nay là Châu văn Liêm.
Sau khi rạch Chợ Lớn bị lấp, tương truyền Quách Đàm rất mê tín, tin phong thủy được thầy bói Tàu nói là nơi trụ sở bến Gaudot là nơi “đầu một con rồng” mà khúc đuôi nằm ở biển cả. Vì thế Quách Đàm không bao giờ đổi trụ sở dù là nhà mướn, đi nơi khác sau khi rất giàu có thành công trên đường làm ăn. Nên khi xảy ra sự việc lấp kinh thành đường thì ông tin rằng cơ sản làm ăn lụn bại vào lúc thời khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 là do việc lấp kinh Chợ Lớn này (4). Rạch Chợ Lớn trên khúc Quai de Gaudot là Quai de Fou-kien (bến Phúc Kiến) sau khi lấp đi làm thành đường Trang Tử trước bến xe Chợ Lớn ngày nay. Khu đường Hải Thượng Lãn Ông, Trang Tử và Phùng Hưng là khu mà ngày nay vẫn còn nhiều người Hoa gốc Phúc Kiến cư ngụ. Ở đây, góc đường Hải Thượng Lãn Ông và Phùng Hưng, có miếu Nhị Phủ (chùa ông Bổn) của người Phúc Kiến và kế miếu là trường trung học Trần Bội Cơ (trước gọi là Ecole de Foukien). Trường nằm trong một phần đất của miếu, được xây từ đầu thế kỷ 20 (1907) rất đẹp với kiến trúc Pháp. Gần đấy ở góc đường Hải Thượng Lãn Ông và Đỗ Ngọc Thanh ngày nay có một kênh nhỏ (nay đã bị lấp) gọi là kinh Bến tắm ngựa vì nơi đây các ngựa xe thổ mộ làm chỗ nghỉ ngơi và tắm ngựa.
http://baotangnhanhoc.org/vi/bai-nghien-cu-lch-s/979-ch-ln-lch-s-a-ly-kinh-t-va-vn-hoa-phn-1.html
Cầu Đường và cầu Minh Phụng bắc ngang Rạch Chợ Lớn không tìm được hình ảnh xưa.
B-Kinh Tàu Hủ
Vị trí các cầu bắc ngang kinh Tàu Hủ (rạch Bến Nghé)
Hình
46: Vị trí các cầu vùng
Chợ Lớn
Cầu Xóm Chỉ (Hình 46 Chú thích A)
Hình
47: Cầu Xóm Chỉ 1909
Hình
48: Cầu Xóm Chỉ 1968
Vào năm 1859 khi quân Pháp tấn
công Sàigòn, tàu chiến Jaccaréo của Pháp đã bỏ neo trên Kênh
Tàu Hủ, án ngữ con kênh ngay khoảng đầu
đường Tản Đà, tức là ngay vị trí
cầu Xóm Chỉ này. Về sau để kỷ niệm
sự kiện này, người Pháp đã đặt tên con
đường này là đại lộ Jaccaréo, tức là
đường Tản Đà ngày nay. Bây giờ nó chỉ
còn là một con đường nhỏ, ít người
biết đến. Hình trong postcard dưới là
đường Jaccareo từ phía kinh Tàu Hủ nhìn vào, có
thể người chụp hình đã đứng chụp
từ trên đầu cầu Xóm Chỉ. Cuối con
đường này là Tòa hành chánh thành phố Chợ
Lớn (sau này là khu vực trường Đại
học Y Khoa Sài Gòn).
Hình
48a : Hình chụp
đường Jaccaro (Tản Đà) từ đầu
cầu Xóm Chỉ
Cầu Chà Và (hình 46 chú thích B)
Hình
49: Cầu Chà Và 1955
Hình
50: Cầu Chà Và
Cầu Chà Và (B) bắc qua kinh Tàu
Hủ nối đường thông thương vùng trung tâm
Chợ Lớn với Xóm Củi, rồi qua cầu Nhị
Thiên Đường đi Cần Giuộc Bình Chánh. Vùng này
xưa có nhiều nguời Ấn sinh hoạt, lập
phố bán vải vóc. Người Việt gọi là
nguời Chà. Bên phía bến Binh Đông có rạp hát Phi Long
đặc biệt hay chiếu phim Ấn
Độ. Rạp này nay là tiệm sách trên đường
Lý Thái Tổ (bến Bình Đông).Cũng nên biết ngườì Việt thời bấy giờ gọi nguời có nước da ngâm đen là người Chà, tuy nhiên, ngoại trừ những loại nguời Chà đến Việt Nam có chủng giống Java ở Nam Dưong, loại nguời Chà mà người Việt Nam sinh hoạt chung đụng là người Ấn Bombay chuyên về buôn bán vải vóc tơ lụa ở vùng thương mại Chợ lớn và loại Chà Chetty làm nghề cho vay ở vùng Saigon, thường là dân có gốc tịch Anh, Pháp.
Cầu Quới Đước (C)
Hình
51: Cầu Quới
Đước
Hình
52: Cầu Qưới
Đước (chú thích C). Xe điện chạy lên
cầu.
Cầu này mang tên lấy tên làng
xưa Quới Đước, khu vực nằm dọc hai
bờ sông Yunan (Vạn Tượng) ngày nay.Cầu nằm trên đường Lê Quang Liêm (nay Trần Văn Kiểu) bắc ngang đầu kinh Bonard (Bãi Sậy – Hàng Bàng).
Đi từ cầu Chà Và xuống rạch Lò Gốm, dọc theo kinh Tàu Hủ hai bên là đường, đường bến Lê Quang Liêm và đường bến Bình Đông, ghe đủ loại neo ở đây, bên phía Lê Quang Liêm có nhà máy rượu Bình Tây, phía Bến Bình Đông thì có nhà máy chế biến lông vịt ra mền (còn nhớ mấy ông “cắc chú” rao mua lông vịt không?)
Dọc theo hai bến có rất nhiều kho, vựa chứa luá, gạo. Nhà máy rượu nấu rượu dùng trấu thải ra từ nhà máy xây lúa cũng ở dọc theo kinh nên tiện cả đôi bề chỉ có điều ô nhiễm không tránh được – nhưng ai để ý đến vấn đề ô nhiễm thời bây giờ?!
Cầu Bình Tây
Cầu đi bộ bắc ngang kinh Tàu Hủ nối qua bến Bình Đông (đường Bình Tây với đương Nguyễn Chế Nghĩa), gần vị trí cuả hãng Bột mì (bến Bình Đông) ngày xưa có tên là Sakybomi (viết tắt Saigòn kỹ nghệ bột mì) cung cấp cho lò bánh mì và tiệm bánh vùng Saigon ChoLon, bây giờ vẩn còn với tên mới công ty Bột Mì Bình Đông.
Hình
53: Cầu Bình Tây
Hình
54: Cầu Bình Tây với ghe
lúa
Cầu bắc ngang kinh Tàu Hủ nối
đường Bình Tây với bến Bình Đông
(đường Nguyễn Chế Nghĩa). Cầu này không còn ở vị trí này
nữa.Từ cầu Bình Tây đi về phía rạch Lò Gốm có câu chữ U (còn gọi là cầu Bột). Cả hai cầu này gìờ không còn nữa.
Cầu Chữ U
Cách công ty Bột Mì một khoảng chừng 200m là vị trí của câu cầu chữ U, bắc ngang kinh Tàu Hủ, cầu sắt nhưng sàn cầu bằng “ván đóng đinh, gập ghình khó qua”, dành cho người đi bộ và xe hai bánh, được xử dụng đến sau 75 thì bị phá hủy.
Đi xuống thêm chút nữa là công ty chế biến lông vịt.
Hình
55: Cầu Chữ U
Hình
56: Cầu chữ U xưa
thập niên 50.
Qua khỏi cầu chữ U bên phía
Lê Quang Liêm (sau 75 Trần Văn Kiểu bây giờ là Võ Văn Kiệt) hướng về
gần rạch Lò Gốm có nhà máy rượu Bình Tây sản
xuất rượu đế lớn nhất nước
Việt Nam. Công ty được xây dựng năm 1900 và
đưa vào sản xuất năm 1902 dưới sự
quản lý độc quyền của tập đòan SFDIC (Société
Francaise des Distilleries de l’Indochine) Pháp.Từ 09/5/2005 Công ty rượu Bình Tây đã chính thức chuyển thành Công Ty Cổ Phần Rượu Bình Tây trực thuộc Tổng Công ty Bia – Rượu-NGK Sài Gòn (SABECO).
C- Kinh Bãi Sậy-Hàng Bàng-Kinh Bonard
Đường nước nằm song song với cầu Qưới Đước là rạch Bến Nghé, và đường nước chảy qua gầm cầu là kinh Bãi Sậy – Hàng Bàng, ngưới Pháp gọi kinh này là Canal Bonard, có khi là Arroyo Chinois.
Kinh Bãi Sậy ở đầu ra rạch Lò Gốm, người địa phương gọi là Hàng Bàng vì hai bên kinh có trồng dãy cây Bàng (giống như đường Hàng Xanh (đường Bạch Đàng); đường Hàng Keo (Phạm Đăng Lưu), nên cũng gọi là kinh Hàng Bàng. Trước khi hợp lưu với rạch Lò Gốm, có một cầu sắt đi bộ bắc ngang kinh, nguời địa phương gọi là cầu Kinh?
Hình
57: Không ảnh vị trí các
kinh chánh trên kinh Bãi Sậy (Hàng Bàng). Ảnh chụp
khoảng đầu thập niên 1950.
Quang cảnh của kinh Bãi Sậy
(Bonard) nhộn nhịp với khu nhà thương mại
dọc hai bên kinh, với dân thương hồ và thuyền
buôn vận chuyển hàng hóa, nông phẩm từ khắp nơi đến.Cầu Ba Miệng-Ba Chưn-Ba Cẳng (tham khảo vị trí hình 46 chú thích D)
Hình
58: Cầu Ba Cẳng nhìn
từ đường Trịnh Hoài Đức
Cầu Ba Cẳng có tên gọi địa phương tùy thời khác nhau như Khâm Sai, Ba Miệng, Ba Chưn
nhìn từ đường Trịnh Hoài Đức (con
đường này chạy thẳng ở cuối rạch
Bãi Sậy, hướng về Bưu Điện Chợ
Lớn Quận 5). Đi về phía
phải của Cầu Ba Cẳng trong hình này vài chục mét
là tới chợ Kim Biên ngày nay, còn về phía trái ra kinh Tàu
Hủ. Hình này chụp khoảng đầu thập niên 1950,
ngày nay cầu này không còn nữa. Cái cẳng trong hình này là
cẳng đi xuống đường Yunnan, tức Vân Nam
(sau 1955 là đường Vạn Tượng), còn hai
cẳng kia thì bắc qua hai con đường hai bên
rạch Bãi Sậy: bên trái xuống bến Bãi Sậy, bên
phải xuống bến Nguyễn Văn Thành nơi
đầu đường Cambodge (sau 1955 là
đường Kim Biên).
Hình
59: Ghe neo dọc theo
đoạn kinh Bãi Sậy, hình chụp đứng trên cầu thang Gò Công
Cầu Ba Cẳng ở Chợ
Lớn, gần phía sau chợ Kim Biên nay không còn nữa.
Cầu ở đầu đoạn rạch Bãi Sậy, nay
lấp thành đường Bãi Sậy và Phạm Văn
Khoẻ quận 6. Cầu Ba cẳng nằm ở khúc
rẽ phải ra kênh Tàu Hủ, hai chân nằm ở bến
Bãi Sậy và bến Nguyễn Văn Thành và chân kia ở
bến Vạn Tượng. Đoạn cuối rạch này
vẫn chưa lấp, và cầu tồn
tại đến năm 1990 thì bị sập.Saigon xưa nhiều kinh, rạch, ao hồ vừa có giá trị giao thương, vừa là chỗ thu nước tràn khi mưa lớn, triều cường. Người xưa (Pháp lẫn Việt) thiết kế hệ thống thoát nước Saigon – Chợ Lớn – Gia Định cho 500,000 dân để giảm thiểu lũ lụt. Ngày nay di dân từ khắp nơi nhất là từ Bắc, Bắc Trung, áp lực nhà cửa đem đến việc lấn chiếm, lấp, thay bằng cống hộp đã dẫn đến hậu quả “đường biến thành sông” mỗi khi mưa lớn kéo dài một hai giờ, tệ hại hơn nữa nếu đúng lúc triều cường.
Ngày nay rạch Bãi Sậy đã hầu như bị lấp hoàn toàn. Phía sau chợ Kim Biên vẫn còn một đoạn rạch rất ngắn khoảng 30m, rộng 3m, trước đổ ra thẳng kênh Tàu Hủ. Cầu Palikao trở thành đường Ngô Nhân Tịnh. Cầu Ba Cẳng đã sập, không còn và rạch phía sau chợ Kim Biên đã bị lấp. Cầu Palikao được người Pháp đặt tên theo một cầu gần Bắc Kinh, gọi là Bát Lý Kiều (cầu tám dặm), nơi liên quân Anh-Pháp vào năm 1860 đánh với quân nhà Thanh.
Hình
60: Cầu Ba Cẳng với
ông Tàu bán gánh dạo
Đây là tấm hình hiếm hoi còn
sót lại của cầu Ba Cẳng, một cây cầu
chẳng có mấy quan trọng, nhưng nó đã trở
thành một phần của lịch sử Sài Gòn – Chợ
Lớn xưa, với cái tên nghe thật dân dã và cũng có
lắm chuyện xưa liên quan đến nó, như
chuyện “Dân chơi cầu Ba Cẳng” của nhà văn
Trương Đạm ThủyPont des 3 arches (Cầu Ba Cẳng) xây bởi công ty Brossard et Mopin (công ty này cũng xây Chợ Bến Thành ở Sài Gòn vào năm 1914). Nhà báo Nguyễn Văn Sâm và nhà bên vợ (em gái ông Trương Văn Bền) bỏ tiền đứng ra xây cầu.
http://baotangnhanhoc.org/vi/bai-nghien-cu-lch-s/979-ch-ln-lch-s-a-ly-kinh-t-va-vn-hoa-phn-1.html
Cầu Gò Công (tham khảo hình 46 chú thích E)
Hình
61: Cầu Gò Công
Cầu có nấc thang cho
người đi bộ bắc ngang kinh Bãi Sậy trên
đường Gò Công.Cầu Palicao (Palikao)-Cầu Ngô Nhân Tịnh (tham khảo vị trí hình 46 chú thích F)
Hình
62: Cầu Palikao. Hình
chụp ghe sắp đi qua vòm giữa cầu Palikao
hướng về cầu Ba Cẳng. (cầu Palikao có 3 vòm,
xem hình 56)
Người Pháp đã đặt
tên là Palikao (Pinjin Bālǐqiáo), có lẽ là do hình dáng
của nó đã gợi cho họ hình ảnh của cây
cầu Bát Lý Kiều ở bên Tàu.Palikao là phiên âm Pháp ngữ tên tiếng Hán “Bát Lý Kiều”, tức là Cầu 8 Dặm – Eight-Mile Bridge, một cây cầu lịch sử ở Bắc Kinh, nơi đã diễn ra trận chiến ác liệt giữa liên quân Anh-Pháp và khoảng 30.000 quân Trung Hoa trong cuộc Chiến tranh Nha phiến lần thứ hai, và họ đã chiếm được cầu này vào ngày 21-9-1860, dẫn tới chiếm được Bắc Kinh sau đó. Theo các sử gia, phía TQ tổn thất nặng nề, thương vong khoảng 25.000 quân trong khi phía Pháp chỉ bị thương vong 1.000 người.
Cầu Bát Lý Kiều của Trung Quốc ngày nay:
Hình
63: Cầu Bát Lý Kiều,
Baliqiao (Chinese: 八里桥; pinyin: Bālǐqiáo), Bắc Kinh (Trung
Quốc)
Hình
64: Quang cảnh kinh Hàng Bàng (Bãi
Sậy) nhìn từ trên cầu Palikao về phía cầu Gò Công,
cầu Ba Cẳng
Ngày xưa dưới chân cầu
Palikao có rạp chuyên hát bội Palikao, nhưng cũng có gánh
cải lương dọn về đây. Vùng này có nhiều
cửa hàng của người Tàu, có món ăn rất
đặc biệt gọi là “hầm dỉ Triều Châu” cá mặn nổi tiếng ở Chợ
Lớn.(http://thatsonchaudoc.com/banviet2/LuuNhonNghia/HoiKy/QuachHen.htm)Theo bác Nguyễn Thành Long trong ban quản trị Nghĩa Nhuận hội quán gần rạch Bãi Sậy, mà tác giả đã có dịp tiếp xúc, thì giữa cầu Ba Cẳng và cầu Palikao xưa kia có 5 kiosque bán trà, chuối, nước giải lao cho các tàu đi trên rạch Bãi Sậy. Cầu Palikao bị dẹp và trở thành đường Ngô Nhân Tịnh vào năm 2003, cùng khoảng thời gian cầu Ba Cẳng bị sập và phá bỏ hoàn toàn (http://baotangnhanhoc.org/vi/bai-nghien-cu-lch-s/979-ch-ln-lch-s-a-ly-kinh-t-va-vn-hoa-phn-1.html).
Hình
65: Rạp Hát Palikao ngày
xưa trên đường Ngô Nhân Tịnh.
Cầu Lò GốmCầu Lò Gốm bắc ngang rạch Lò Gốm ngày nay gần giao điểm với kinh Hàng Bàng.
Hình
66 : Cầu Lò Gốm
Đây là đoạn kinh Hàng Bàng
cuối cùng trươc khi trở thành đường
Bến Lò Gốm.
Hinh
67: Kinh Bãi Sậy ngày nay, nhìn
từ cầu đi bộ Gò Công.
(Nguyễn
đức
Hiệp- http://baotangnhanhoc.org/vi/bai-nghien-cu-lch-s/979-ch-ln-lch-s-a-ly-kinh-t-va-vn-hoa-phn-1.html)
Cầu bắc ngang kinh TẽKinh Tẽ được đào vào năm 1905 bắt đầu từ sông Sàigòn đến cầu Chữ Y nhằm đáp ứng nhu cầu lưu thông của thương thuyền buôn bán vào rạch Tàu Hủ. Gọi là Tẽ bới kinh tẽ từ sông Sài Gòn. Kinh dài 4360m (http://www.vietgle.vn/trithucviet/detail.aspx?key=kinh+T%E1%BA%BD&type=A0).
Cầu Tân Thuận
Hình
68: Cầu Tân Thuận 1967
Cầu Tân Thuận 1 nối
đường Huỳnh Tấn Phát quận 7 với
đường Nguyễn Tất Thành – quận 4. Cầu
dài 241 m, lòng cầu rộng 8 m, mỗi lề 1,25 m. Cầu
được xây từ thời Pháp thuộc sau khi đào
kinh Tẽ năm 1905. Cầu được
sửa chữa lớn năm 1992. Năm 2005, cầu
lại xuống cấp, Sở Giao thông Công chánh thành phố
giao cho Công ty Freyssinet International at Compagnie của Pháp
tiến hành sửa chữa, nâng cấp cầu. Năm 2008,
cầu lại tiếp tục được sửa
chữa để nâng tải trọng lên 30 tấn.
Hiện nay, cầu cho phép các loại xe lưu thông một
chiều từ quận 7 sang quận 4.Cầu Tân Thuận đi xuống Phú Xuân, Nhà Bè chỉ có sau khi kinh Tẽ giáp nối sông Saigòn được đào thời Pháp khoảng 1905-06. Đoạn từ cầu chữ Y được đào song song với rạch Tàu Hủ người Pháp đặt tên là Canal de Doublement, được dịch ra là Kinh Đôi. Thời chưa có cầu, từ Saigon xuống Nhà Bè phải qua đò.
Cầu Tân Thuận liên hệ với chuyện tiểu trừ lực lượng Bình Xuyên của Bảy Viễn năm 1955.
Ngày 13 tháng hai năm 1955, quân lính của tướng Cao Đài Trịnh Minh Thế chính thức sát nhập vào quân đội Việt Nam Cộng Hòa, còn Trịnh Minh Thế nhận hàm thiếu tướng. Trong chiến dịch loại bỏ lực lượng Bình Xuyên, ông dẫn quân tiến đánh quân Bình Xuyên tập trung bên Cầu Tân Thuận.
Trịnh Minh Thế ngồi xe Jeep đậu dưới dốc cầu Tân Thuận chỉ huy quân đội Cao Đài Liên Minh vượt cầu đánh quân Bình Xuyên đang xuống xà-lan rút ra Rừng Sác. Lễ xuất quân tảo thanh Bình Xuyên của tướng Thế diễn ra trên bãi đất trống ở rìa Đồng ông Cộ, không xa mấy chợ Bà Chiểu.
Không có xe G.M.C. (loại xe chở lính của Mỹ viện trợ cho QLVNCH), Thế đã phải xung công xe chở heo để chở binh sĩ. Tại cầu Tân Thuận, lính Cao Đài mấy lần vượt cầu đều bị đánh bật lại. Chỉ huy quân Bình Xuyên ở bên kia cầu là Bảy Môn. Sau khi rút từ cầu Nhị Thiên Đường, cầu Chữ Y, cầu Rạch Ông, Bảy Môn tập trung quân số cố thủ cầu Tân Thuận chặn quân Cao Đài tràn qua. Ông kết hợp súng cối của bộ binh và đại liên các giang đỉnh trên Kinh Tẻ bắn xối xả vào hai chục xe heo chở đầy lính Cao Đài ở bên kia cầu.
Trong khi chỉ huy Tướng Trình Minh Thế bị một viên đạn carbin bắn tỉa bắn vào sau gáy. Vụ giết người này không bao giờ được làm sáng tỏ, một số người đổ lỗi cho phía Pháp, trong khi một số người khác cho rằng chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã làm việc này. Hoàn cảnh cái chết của ông cũng gây nhiều tranh cãi, khi có nhiều thông tin khác nhau, thậm chí đối lập nhau về thời gian, địa điểm, vết thương gây nên cái chết của ông. Sau khi chết, tên ông được đặt cho con đường ở Quận 4 Sài Gòn cho tới năm 1976. (http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C3%ACnh_Minh_Th%E1%BA%BF).
Kinh Đôi (Canal de Doublement)
Kinh Đôi được đào nổi tiếp Kinh Tẽ bắt đầu từ cầu chữ Y xuống đến sông Cần Giuộc khoảng 1896-8 song song với kinh Tàu Hủ nhằm đáp ứng nhu cầu thuận tiện hóa ghe thuyền chuyên chở nông phẩm từ miền Tây.
Cầu Nhị Thiên Đường là cây cầu bắc qua kênh Đôi, thuộc địa phận Quận 8 hiện nay. Cầu được xây dựng vào những năm 1925 là điểm nguồn của Quốc lộ 50 và được đổ bê tông theo kiến trúc hiện đại. Cầu này nối liền lưu thông từ Chợ Lớn sang Cần Giuộc, Bình Chánh.
Hình
69: Cầu Nhị Thiên
Đường trên kinh Đôi
Vị trí cầu Nhị Thiên
Đường, xin tham khảo hình 46 chú thích.5-Kinh Vòng Thành-Canal de Ceinture.
Kinh này được đào năm 1875 theo quy hoạch của Coffyn, mục đích tối hậu là nối rạch Thị nghè (Arroyo de l’Avalance) với kinh tàu Hủ (Arroyo Chinois) thông qua rạch Chợ Lớn (không nên nhầm với Kinh Tàu Hủ) để hoàn thành đường nước bao bọc, biến Saigon Chợ Lớn thành một cù lao-Bắc có rạch Thị Nghè (Arroyo de l’Avalanche) ; Nam có rạch Bến Nghé (kinh Tàu Hủ) Arroyo Chinois; Đông có sông Saigon (rivière de Saigon) và Tây có Kinh Vòng Thành (Canal de Ceinture).
Theo báo cáo “Monographie de la Province de Gia-Định 1902”, kinh đào năm 1875, dài 7km, bề rộng 10m, sâu 3m, nhưng cho đến nay 1902, kinh chưa hề được xữ dụng vì nạn bùn lấp, vùng Phú Thọ đáy sông bùn lên cao hơn mực thủy triều.
Hình
70: Bản đồ 1962
với Kinh Vòng Thành (Bao Ngạn)
Khảo bản đồ Saigon
Chợ lớn 1962, kinh Vòng Thành đầu nguồn từ
chỗ giáp nước của Rạch Lò Gốm và rạch Chợ
Lờn, cuối nguồn là rạch Cầu Kiệu gần cầu
Công Lý – không phải là gần cầu Kiệu
ở Phú Nhuận.Kinh Vòng thành đã được thực hiện năm 1875, nhưng sau đó đã bị bùn lấp nhanh chóng, nên không được xử dụng thực tế (Monographie de la Province de Gia- Định 1902, trang 19). Một vài đoạn kinh vẫn còn có nước – như đoạn trong bản đồ chạy ngang đồn Cây Mai (bây giờ là đường Nguyễn thị Nhỏ).
Lò siêu ở sau đồn Cây Mai cũng dùng Kinh Vòng Thành để ra rạch Chợ Lớn. Nay rạch Kinh Vòng Thành đã cạn và lò siêu cũng thôi hoạt động (theo Vương Hồng Sển – Sàigon năm xưa 1960).
Y Nguyên Mai Trần 6/2013
Tham khảo1-Trần Văn Học http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n_V%C4%83n_H%E1%BB%8Dc,
2-Quy Hoạch Coffyn-Viết Thêm về Quy Hoạch Coffyn 1862. Tôn Nữ Quỳnh Trân, Trương Hoànng Trương
http://moitruongxanhhcm.org.vn/index.php/Ho-so-tu-lieu/viet-them-ve-quy-hoach-coddyn-1862.html
3-Monographie de la Province de Gia-Định 1902. Geographie Physique, Économique et Historiques de la
Cochinchine. Publications de la Société des etudes Indo-Chinoises.
4-Gia Định Thành Thông Chí -Trịnh Hoài Đức-Lý Việt Dũng dịch và chú giải
http://namkyluctinh.org/a-sachsuvn/giadinhthanh-thongchi%5Bp3%5D.pdf
5-Le réseau des canaux et arroyos à Saigon-Cholon. http://www.reseau-asie.com
6- Saigon Cho Lon thế kỷ 17 đến thế kỷ 19- Nguyễn Đức Hiệp.
7-Trương Vĩnh Ký-Jean Baptiste Pétrus Trương Vĩnh Ký (1837-1898), Souvenirs historiques sur Saïgon et ses environs, conférence faite au collège des interprètes par M. P. Truong Vinh Ky, Éditeur : Impr. coloniale (Saïgon), 1885.
8- Vương Hồng Sển, Saigon năm xưa, 1992, Nxb Trẻ
9- Hình ảnh xưa -http://belleindochine.free.fr/
10-Hình ảnh xưa manhhai http://www.flickr.com/photos/13476480@N07/sets/
11-Hình ảnh xưa http://www.panoramio.com
10- Gerard Sasges, “State, Enterprise, and the Alcohol Monopoly in Colonial Vietnam” Journal of Southeast Asian Studies 2011
11-Lê Công Lý “l ịch s ữ kinh rạch ở Saigon Cho lon” http://tailieutonghop.com/free/lich-su-kinh-rach-o-sai-gon-cho-lon_f194-26454.html
Nguồn: http://maivantran.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét