Cột đồng Mã Viện - âm mưu trấn yểm nước Việt?
Cột đồng Mã Viện, theo một số sử cũ, là
một cây cột đồng lớn trên có khắc sáu chữ Hán: "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ
diệt" do viên chỉ huy quân đội nhà Hán là Mã Viện sai làm từ các dụng
cụ bằng đồng thu được của người Việt và cho dựng sau khi chinh phục được
cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng ở Giao Chỉ vào năm 43.
Theo nhà khảo cứu độc lập Thiên Đức, cột
đồng này chính là một phần của trận đồ phong thủy được lập để diệt tận
mọi mầm mống phản kháng ở nước ta.
Cụ thể, Mã Viện đã sử dụng một loại
bùa rất hiếm hoi đề cập trong sách vở đó là loại bùa Lưỡng Nghi tức là
bùa Âm Dương có hiệu lực cao hơn bùa bát quái hai bậc theo Kinh Dịch.
Yếu tố Dương trong bùa yểm này là chiếc cột đồng, còn yếu tố Âm là Kiến
Thành - tòa thành hình cái kén được Mã Viện cho xây ở Phong Khê.
Cột đồng Mã Viện |
Hình dáng Kiến Thành kết hợp với cột
đồng Mã Viện tạo nên một đạo bùa mạnh nhằm trấn yểm không cho người đàn
bà Giao Chỉ (mà thời nhà Hán gọi là yêu nữ) tiếp nối truyền thống anh
hùng dân tộc. Nói theo kiểu dung tục thì Mã Viện đã chơi một trò rất thô
bỉ là "đóng cọc” người đàn bà Giao Chỉ nhằm triệt tiêu con đường kết
phát vương quyền cho nữ giới Việt Nam sau này.
Ngoài ra, câu "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ
diệt" về bản chất là một câu thần phù hay một lời nguyền. Chữ “chiết” ở
đây không có nghĩa là gãy mà có nghĩa là tách làm hai. Do đó, câu này
nên giải thích là "trụ đồng tách huyệt (đế vương) ra làm hai, vua Giao
Chỉ bị giết", chứ không thể dịch là “trụ đồng bị gãy, dân Giao Chỉ bị
giết”. Chữ “huyệt” và chữ “vương” là hai chữ đã bị ẩn trong câu này.
Cao Biền và cuộc chiến bùa yểm ở nước Việt
Lịch sử Việt Nam đến nay vẫn còn lưu giữ
rất nhiều giai thoại ly kỳ về hoạt động yểm bùa của Cao Biền - quan đô
hộ nước ta thời Bắc thuộc.
Một giai thoại nổi tiếng kể rằng, khi
sang Giao Châu, Cao Biền thấy long mạch nước Nam rất vượng, muốn phá đi,
thường mặc áo phù thủy, cưỡi diều giấy đi khắp nơi để xem địa thế, hoặc
giả tảng lập đàn cúng tế để lừa thần bản địa đến rồi dùng kiếm báu chém
đầu, xong đào hào, chôn kim khí để triệt long mạch. Một lần, khi Cao
Biền cưỡi diều giấy bay đến đất Hoa Lư đã bị một đạo sĩ cùng dân chúng ở
đây dùng tên bắn. Cao Biền trọng thương, diều gãy cánh rơi xuống một
hòn núi, từ đó hòn núi mang tên là núi Cánh Diều.
Một buổi sớm khác, Biền ra đứng ở bờ
sông Lô Giang, phía đông thành Đại La, thấy một trận gió lớn nổi lên,
sóng nước cuồn cuộn, mây trôi mù mịt, có một dị nhân đứng trên mặt nước,
cao hơn hai trượng, chập chờn lên xuống trong khoảng không. Biền rất
sợ, muốn yểm thần, đến đêm nằm mộng thấy thần tới nói rằng: “Chớ yểm ta,
ta là tinh ở Long Đỗ, đứng đầu các địa linh. Ông xây thành ở đây, ta
chưa được gặp, cho nên tới xem đó thôi; ta có sợ gì bùa phép?”.
Biền lại khiếp đảm, sáng hôm sau lập đàn
niệm chú, lấy kim đồng thiết phù để yểm. Đêm hôm ấy, sấm động ầm ầm,
gió mưa dậm dật, đất trời u ám, thần tướng hò reo, kinh thiên động địa.
Trong khoảnh khắc, kim đồng thiết phù bật ra khỏi đất, biến thành tro,
bay tan trên không. Cao Biền càng kinh hãi, than rằng: “Xứ này có thần
linh dị, ở lâu tất chuốc lấy tai vạ” và sau đó cho lập đền thờ ở ngay
chỗ ấy và phong cho thần là thần Long Đỗ, chính là đến Bạch Mã ở phố cổ
Hà Nội ngày nay.
Một truyền thuyết khác lại kể rằng: khi
sang nước Nam để yểm bùa và triệt hạ long mạch, Cao Biền có nuôi 100 âm
binh. Đến nước Nam, Cao Biền ở trọ nhà một bà hàng nước và nhờ bà mỗi
ngày thắp một nén hương, gọi dậy một âm binh. 100 ngày thắp đủ 100 nén
hương sẽ gọi dậy được 100 âm binh. Bà lão nước Nam đã phá âm mưu của Cao
Biền, giả vờ quên, thắp cả 100 nén hương trong một ngày. Kết quả là 100
âm binh của Cao Biền đã dậy đủ nhưng mà dậy non, thiếu ngày nên chẳng
hiệu quả gì. Đây là nguồn gốc của câu thành ngữ “lẩy bẩy như Cao Biền
dậy non”.
Chuyện trấn yểm long mạch ở Sài Gòn trước 1975
Ở Sài Gòn trước năm 1975 có hai công
trình hình bát giác được cho là biểu tượng phong thủy để trấn yểm
long mạch, đó là hồ Con Rùa và khám Chí Hòa, với rất nhiều giai
thoại mang màu sắc huyền bí, ly kỳ xung quanh.
Trại giam Khám Chí Hòa từ trên cao |
Có giai thoại kể rằng, sau khi nhậm
chức tổng thống, ông tổng thống nổi tiếng mê tín Nguyễn Văn Thiệu đã
cho người mời thầy địa lý từ Hồng Kông sang Việt Nam để trấn yểm
Dinh Độc Lập. Thầy này phán rằng Dinh Độc Lập được xây trên long
mạch, trấn ngay vị trí đầu rồng. Đuôi rồng rơi vào vị trí Công
trường Chiến sĩ trận vong. Cần phải dùng một con rùa lớn trấn
yểm đuôi rồng lại thì sự nghiệp của tổng thống mới mong bền
vững.
Nguyễn Văn Thiệu lập tức cho xây hồ
nước theo hình bát giác, phỏng theo bát quái đồ, có 4 đường
đi bộ xoắn ốc đều hướng đến khu vực trung tâm là đài tưởng
niệm và hình tượng con rùa bằng hợp kim đội bia đá. Khu vực
trung tâm còn có một cột cao được xem như một chiếc đinh lớn
đóng xuống giữa hồ để ghim đuôi rồng lại. Vào đầu năm 1976,
tấm bia và con rùa bị phá hủy trong một vụ nổ. Tuy con rùa
không còn nhưng người dân vẫn quen gọi là hồ Con Rùa, thay cho
tên gọi chính thức.
Một giai thoại khác về hồ Con Rùa
gắn liền với nguồn gốc xây Dinh Độc Lập, lấy núi giả trong
Thảo Cầm Viên làm bình phong, sông Thị Nghè làm lưu thủy, tạo
thế long chầu, hổ phục. Người Pháp biết điều này, liền cho xây
nhà thờ Đức Bà mặt trước bên phải Dinh, hòng phá chữ. Do vậy
mà sau này thổng thống Thiệu đã xây thêm hồ Con Rùa để phá thủy,
làm nước phun lên.
Một kiến trúc khác được cho là
biểu tượng phong thủy thứ hai của Sài Gòn là trại giam Chí
Hòa, được người Pháp cho xây dựng từ năm 1943. Kiến trúc của Khám Chí
Hoà rất đặc biệt, do một kiến trúc sư người Nhật thiết kế và xây dựng
theo ngũ hành bát quái. Nó cao ba tầng lầu có hình bát giác với 8 cạnh
đều, 8 góc A, B, C, D, E, F, G, H, tượng trưng cho 8 quẻ trong Kinh
dịch.
Một vài tài liệu nghiên cứu cho
rằng, khám Chí Hòa được xây dựng dựa trên bát quái trận đồ
của Khổng Minh. Ngay tâm của bát quái trận đồ cũng có một đài
phun nước như cột cao của hồ Con Rùa, gọi là “tru tiên kiếm”, có
tác dụng khiến những tên tội phạm dù có xảo quyệt, tinh ranh
đến đâu cũng không thể trốn được. Nếu tru tiên kiếm bị nhổ lên
thì toàn bộ bát quái trận đồ được thiết kế công phu sẽ tự
vỡ.
Chính lối kiến trúc nhuốm màu sắc
huyền linh này khiến người ta gọi lối vào duy nhất của khám
Chí Hòa là cửa Tử. Nghĩa là đã vào rồi thì không có cách
nào để nhận biết đường ra nếu không thông lý số, kinh dịch. Có
lẽ đó là lý do mà lịch sử khám Chí Hòa chỉ có 2 trường hợp
vượt ngục thành công.
Trận đồ bát quái của Cao Biền dưới lòng sông Tô Lịch?
Vào tháng 4.2007, báo Bảo vệ Pháp luật
đã đăng một loạt bài về hiện tương “thánh vật ở sông Tô Lịch” gây xôn
xao dư luận một thời gian dài.
Theo đó, vào tháng 9.2001, một đội thi
công xây dựng do ông Nguyễn Hùng Cường làm đội trưởng, trong quá trình
thi công kè bờ, nạo vét một đoạn sông Tô Lịch thuộc phường Nghĩa Đô,
quận Cầu Giấy, Hà Nội đã tìm thấy một số di vật cổ, trong đó có tám bộ
hài cốt bị đóng đinh vào bả vai, nhiều xương răng động vật (voi, ngựa,
trâu), hơn mười cái liễn lớn nhỏ bằng sành, nhiều đồ gốm, đồ sắt, đồ
dùng như bát đĩa, dao, liềm, kim khâu, một số mảnh gốm men ngọc đã bị vỡ
được cho là thuộc đời nhà Trần và Lê Sơ, tiền cổ hình tròn có lỗ vuông.
Tại khu vực này còn phát hiện thấy nhiều vật liệu xây dựng cổ xưa như
ngói cổ, đá, nhiều gạch cổ, đặc biệt là gạch vồ thời nhà Lê. Quanh chỗ
phát hiện hài cốt là các cọc gỗ lim đóng theo những hàng ngắn, bố trí
lạ.
Công trình được dừng lại một thời gian
để các nhà khoa học nghiên cứu. Giám đốc Bảo tàng Hà nội và các nhà khoa
học được mời tới, trong đó có giáo sư Trần Quốc Vượng. Giáo sư Vượng
cho rằng đây là trận đồ bát quái yểm trấn giữ cửa thành Đại La từ thế kỷ
thứ 9.
Trong quá trình thi công, ông đã thuật
lại những hiện tượng như: Các công nhân xây dựng gặp các hiện tượng như
động kinh, mơ gặp ma, thân nhân của họ gặp nhiều chuyện bất hạnh liên
tiếp, các công việc thi công không tiến triển được như đê đắp lên thì đê
vỡ, kè thép không vỡ nhưng nước xói từ dưới lên, đặt đá xuống thì đá
chìm, nhiều mũi khoan bị gãy nhanh khi khoan thăm dò ở giữa sông, một số
người khác có liên quan đến các di chỉ và những người được mời tới làm
lễ giải bị ốm nặng hoặc chết trong vòng một vài tháng…
Một số nhà khoa học, nghiên cứu lịch sử
và các nhà nghiên cứu phong thủy Việt Nam khác cho rằng đây có thể là
nơi trấn yểm của Cao Biền. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, câu
chuyện “thánh vật ở sông Tô Lịch” là chỉ những thông tin thổi phống, sai
lệch so với sự thật.
Đền Hùng bị đạo sĩ của quân Nguyên Mông trấn yểm?
Tháng 4.2013, dư luận đã xôn xao trước
thông tin về một “hòn đá lạ” được đặt tại Đền Thượng (Đền Hùng, Phú Thọ)
như một dạng bùa yểm không tốt.
Nhà nghiên cứu sử học Nguyễn Tiến Khôi,
nguyên là Giám đốc Ban quản lý Khu di tích lịch sử Đền Hùng đã giải
thích về “hòn đá trấn yểm” này trên báo Năng Lượng Mới như sau:
Khi tu sửa đền Hùng năm 2009, lúc tháo
dỡ toàn bộ bệ thờ trên đền Thượng, cán bộ và công nhân đã phát hiện một
viên gạch lạ có in chữ Hán. Nhiều nhà văn hóa cho rằng có thể là bùa yểm
trong đó. Để phá thế yểm, Ban quản lý đã phải mời các pháp sư.
Cụ thể người trực tiếp tham gia làm
việc này là ông Nguyễn Minh Thông (hiện nay đang là giám đốc Trung tâm
nghiên cứu ứng dụng văn hóa phương Đông). Một số nhà khoa học và ngoại
cảm đã vào cuộc hội thảo nhiều lần, khẳng định viên gạch này có từ cuối
thời Trần, do đạo sĩ của quân Nguyên Mông mang đến đặt.
Hòn đá được cho là một kiểu trấn yểm bằng bùa gạch
Thời đó, phía Nguyên Mông bị nhà Trần ta
đánh tan ba lần, đã cử đạo sĩ được cải trang sang nước ta, dùng thủ
đoạn yểm bùa gạch này tại đền Thượng. Trên viên gạch được ghi “Đánh đổ
đức sáng Vua Hùng” (hiện còn lưu giữ tại bảo tàng Đền Hùng).
Hòn đá ở đền Hùng không phải có từ trước, mà được một người dân cung tiến, đưa về và đặt tại Đền Thượng từ năm 2009…
Theo ông Khôi, từ năm 2009 đến nay, hòn
đá chắc chắn đã làm tốt nhiệm vụ của nó, với ý hóa giải bùa yểm phương
Bắc, trấn trạch bình an, tạo năng lượng vũ trụ cho Đền Thượng khiến quốc
gia được hưng thịnh, tốt đẹp.
Tuy nhiên, nhiều người đã phản bác ý kiến của ông Khôi, cho rằng hòn đá không có ý nghĩa gì về tâm linh.
Theo Kienthuc.net
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét